"Lên đỉnh Tà Sùa không giống như leo Phu Song Sung ở bản Xà Hồ gần đấy, Phu Song Sung đường dễ đi hơn nhiều và người dân trong bản ai cũng có thể dẫn đường lên núi cho bạn. Còn với Tà Sùa, cả bản chỉ có một vài người từng là thợ săn hay những người già làng mới biết đường lên núi. Và đỉnh Tà Sùa thì chắc chỉ những thợ săn kỳ cựu nhất mới có thể đã từng đi qua".
Tôi biết đến dãy Tà Sùa lần đầu khi đọc bài viết của nhà báo Đỗ Doãn Hoàng về “Những cô Phùa sống giữa mây cao”. Nơi ấy có người con gái mang vẻ đẹp trời không tạo ra được, người không tạo ra được, với cuộc sống bình lặng như một triền núi xa xa. Rồi đến những cánh rừng pơ mu bị tàn sát bởi thần lửa và bởi lâm tặc.
Cái dãy núi phân chia Yên Bái và Sơn La ấy vẫn mang một sức sống ngầm cuộn chảy bên trong. Vẫn có những bản người Mông nhà phủ trong sương, với bếp lửa nấu rượu xình xịch khi xuân về tỏa khói pơ mu thơm đượm như nhang trầm.
Chúng tôi tìm đường lên dãy Tà Sùa một ngày đầu năm mới...
Đường vào bản Tà Xùa.
Vào bản Tà Sùa
Để lên dãy Tà Sùa, bạn cần vào bản Tà Sùa thuộc xã Bản Công huyện Trạm Tấu, Yên Bái. Cần chú ý ở điểm này , vì xã Bản Công của huyện Trạm Tấu bao gồm 5 thôn (bản), đó là: Tà Chử, Tà Sùa, Khấu Chu (Kháo Chu), Sán Chá và Bản Công. Lúc đầu, do chưa biết đường, chúng tôi tìm vào đến tận thôn Bản Công (gồm Bản Công dưới và Bản Công trên). Và như vậy không đúng đường, nên phải quay lại. Sự lầm lỡ này cộng với con đường trơn như mỡ ngày mưa đã làm thiệt hại một ngày đường của cả đoàn.
Điểm trường ở Tà Xùa.
Từ trung tâm huyện vào bản Tà Sùa chừng 7 cây số. Ngày khô ráo, con đường này đi lại không quá khó, chỉ trừ những cây số cuối đường dốc vào bản. Nhưng ngày mưa, như mọi con đường vùng núi cao, tuyến giao thông độc nhất xuống huyện này thách thức với mọi người dân trong bản. Vào đến bản, chúng tôi tìm vào nhà một người Mông dẫn đường có tên là Vảng.
Có một điều đáng để nói là những ngôi nhà trong các bản (Bản Công, Bản Tà Sùa...) của người Mông nơi đây đều làm rất to và rộng. Từ những ngôi nhà làm chưa lâu lắm, mái phi-brô xi măng hãy còn sáng sủa, cho đến những ngôi nhà mái lợp ván gỗ phủ một màu nâu đen của khói, bụi và cả thời gian. Đi qua điểm trường Tà Sùa, tất cả đều vắng vẻ - ngày tết và cũng là ảnh hưởng của đợt lạnh nên học sinh được nghỉ.
Phàng A Vảng và cô con gái thứ ha
Nhà của Phàng A Vảng cũng là một ngôi nhà tương đối rộng rãi. Nền đất cao ráo, vách hoàn toàn bằng gỗ. Không khí mùa xuân đã tràn về trên những cây mận nở hoa trắng xóa và cả cây đào khoe những chồi nụ hồng chúm chím sau nhà. Trời vẫn đang rất lạnh và sương mù bao phủ. Bếp lửa trong nhà Phàng A Vảng vẫn cháy bập bùng, vừa để sưởi ấm, vừa để đun nấu.
A Vảng đang ngồi tẽ ngô. Ông bố của bốn đứa con này khoảng chừng 36-37 tuổi. Đứa con gái lớn nhất năm nay mười bảy tuổi, đã đi lấy chồng. Cô con gái thứ hai hiện đang học lớp tám. Lúc mọi người vào nhà là lúc cô bé đang đun một nồi cám to. Cậu con trai thứ ba học lớp sáu, đang đi chăn trâu. Còn cô bé út ít mới hai tuổi, vừa khỏi ốm dậy, vẫn chân đất chạy quanh nhà trong giá rét. Lúc thì nép sau lưng bố, lúc thì ôm cổ chị tò mò nhìn đoàn khách lỉnh kỉnh ba lô với đồ đạc.
Những bức tranh chì màu rực rỡ của cô bé gái.
Cũng như những ngôi nhà người Mông nơi đây, nhà của A Vảng với ngô gác trên mái, khoai sắn chất trong góc nhà. Ở vị trí bàn thờ, có bốn túm lông gà. Tết năm mới của người Mông không như của người Kinh (ngày 1/1) mà vào ngày đầu tháng Chạp (1/12 âm lịch).
Trong ngày Tết, lông của con gà trống sau khi thịt cúng tổ tiên sẽ được bó thành các túm nhỏ để dán lên tờ giấy nơi để bàn thờ. Ở một góc nhà của A Vảng, có rất nhiều bức tranh chì màu, vẽ các hình hoa rất đẹp.
Cô con gái thứ hai bẽn lẽn cười khi bố chỉ cho mấy anh em tác giả của những bức tranh làm bừng sáng cả góc nhà ấy. Gần đó còn một tấm giấy in lớn dành cho "Kế hoạch phòng chống thiên tai tại hộ gia đình" năm 2009 với những phần viết nội dung thực hiện bằng nét chữ khá trẻ con. A Vảng bảo sáng nay vừa chở vợ xuống trung tâm huyện đi họp phụ nữ. Chúng tôi lắc đầu khi nghĩ lại đoạn đường trơn trượt và dốc từ trung tâm vào Tà Sùa này.
Bên bếp lửa, anh em giới thiệu xong, quay lại vấn đề chính nhờ A Vảng dẫn lên đỉnh Tà Sùa. Anh đúng là người đã dẫn đoàn của người bạn trước đó leo lên. Dự định ban đầu là sẽ thuê mỗi người dẫn đường 150 nghìn cho một ngày đường. Tuy nhiên, nếu A Vảng khá thẳng thắn và thật bụng, thì anh bạn Phàng A Đu đi cùng lại khá mưu mẹo và có máu làm ăn. Những câu tiếng Mông của A Đu đã ép giá cả chuyến đi thành 1 triệu đồng.
Đầu giờ chiều, cả đoàn bắt đầu lên đường, sau khi đã chuẩn bị thêm nồi niêu, rau và gạo. Năm anh em năm chiếc ba lô, hai bao tải đựng đồ của A Đu và A Vảng cũng được buộc dây rất khéo không khác gì ba lô đeo. Cô bé út hai tuổi của A Vảng khóc nức nở đòi theo bố. Thế nhưng chỉ duy nhất có chú chó vàng là chẳng cần xin phép, cứ thế lẽo đẽo chạy theo suốt con đường.
Chúng tôi đi tắt, men theo bờ ruộng bậc thang để ra đường lớn, nhưng con đường này lại lầy lội bùn và trơn trượt, chẳng nhấc gót giày lên được. Đành phải leo lên đường mòn bên đồi làm ta-luy ven đó để đi.
Đoạn đường sạt lở với cây cầu tạm bằng thân cây rừng.
Con đường đất này vốn do dân trong bản tự làm, được nhà nước hỗ trợ tiền. Rộng chừng 2-3 mét bề ngang. Mỗi mét chiều dài được hỗ trợ 30 nghìn đồng. Nhà nào làm đủ sức làm được bao nhiêu thì nhận bấy nhiêu. A Vảng bảo, đợt này đang mưa dầm, cộng thêm việc bà con lấy nước từ suối vào ruộng nên nước tràn từ trên cao xuống, con đường trở nên lầy lội khó đi.
Đêm trên điểm cao 2200m
Hết đường, bắt đầu dốc lên, cũng là lúc bắt đầu vào đến rừng. Đường vẫn trơn, và dốc càng lúc càng cao.
Những cây dương xỉ rất lớn.
Đây là con đường bà con trong bản thường dùng để đi rừng lấy gỗ, đánh bẫy, hái các loại cây quả. Hơi ẩm cao và mồ hôi đổ ra cả vì đồ đạc lẫn cái mỏi. Nhiều đoạn dốc cao quá đầu, không có cả chỗ đặt chân, đành phải bám rễ hoặc cành cây để leo lên.
Đêm trên điểm cao 2200m
Hết đường, bắt đầu dốc lên, cũng là lúc bắt đầu vào đến rừng. Đường vẫn trơn, và dốc càng lúc càng cao.
Những cây dương xỉ rất lớn.
Đây là con đường bà con trong bản thường dùng để đi rừng lấy gỗ, đánh bẫy, hái các loại cây quả. Hơi ẩm cao và mồ hôi đổ ra cả vì đồ đạc lẫn cái mỏi. Nhiều đoạn dốc cao quá đầu, không có cả chỗ đặt chân, đành phải bám rễ hoặc cành cây để leo lên.