• Đăng ký nhanh... Đăng nhập bằng Facebook

Peru: Làm quen với con cháu thần mặt trời

BandoIncatrail.jpg


Bản đồ cung đường Inca: đây là hai hệ thống đường chính (không kể vô số nhánh nhỏ) kéo dài qua năm nước từ Ecuador đến tận Agrentina. trong cung đường Inca với tổng chiều dài hơn nưả đường xích đạo (gần 23.000 km)





Con đường mòn gồ ghề đá , len lỏi qua dải núi Andes phủ đầy mây mù và tuyết trắng, vậy mà muốn đi phải đăng kí trước cả nưả năm mới hi vọng xin được giấy phép. Chuyến đi bộ bốn ngày, ba đêm trung bình trên con đường này ngốn 500 usd/người. Đơn giản nó chính là con đường mòn Inca có từ thế kỉ 15, một trong những cung đường mòn lịch sử đáng đi nhất trên thế giới, dẫn đến kì quan thế giới Machu Picchu...



Không phải gì cũng mua được bằng tiền

Tôi từng gặp những khuyến cáo: “Muốn đi Inca trail phải đăng kí giấy phép ít nhất sáu tháng trước khi khởi hành”. Vì thế, sau khi thu xếp được công việc để đi Peru, tôi lập tức online đăng kí giấy phép. Thế nhưng… giấy phép đã kín chỗ cho đến… tháng 11. Do sợ quá đông khách du lịch sẽ phá hỏng con đường, chính quyền Peru chỉ đồng ý cấp phép cho dươí 250 du khách/ngày (không tính hướng dẫn viên và người thồ hàng). Chính vì thế, con đường này là một trong những tuyến đường trekking (đi bộ) “hot” nhất thế giới. Muốn đi phải đặt trước ít nhất từ 4 đến 6 tháng, thậm chí cả năm. Mà đâu có rẻ, một chuyến đi bộ 4 ngày 3 đêm giá trung bình từ 500 đến 600 usd. (Đối với nhóm ít người, số tiền này còn cao hơn nhiều).



Phải tìm cách xoay sở! Vừa đến Cuzco, tôi lập tức liên lạc với tất cả các công ty du lịch được giới đi đường xa “điểm mặt chỉ tên”, nhưng đều được nhận cái lắc đầu một cách dứt khoát. Thậm chí họ còn cười nhạo khi tôi hỏi việc sẵn sàng trả thêm cho việc “chạy” giấy phép đi Inca trail: “ Đừng mơ tưởng, có trả gấp ba, bốn lần cũng thua”. “Thế còn việc đi chui?”, tôi hỏi nhỏ. Họ cười phá lên: “Dọc đường có đến năm trạm gác, kiểm tra 24/24 vì thế, đừng hòng. Thậm chí, nếu có người đã đăng kí nhưng hủy vào giờ chót, cũng không có ai được trám chỗ vì số hộ chiếu đã được lưu vào máy, không thay đổi được”. Cùng đường, tôi đành cầu cứu văn phòng đại sứ quán Việt Nam tại Chile (Peru không có văn phòng đại sứ quán Việt Nam) hi vọng nhờ can thiệp. Ngay trong buổi chiều, lá thư giới thiệu từ đại sứ quán được fax trực tiếp đến nơi cấp giấy phép là Viện văn hoá quốc gia tại Cuzco (INC: Intitution National Culture de Cuzco). Cùng lúc đó, để chắc chắn, bí thư thứ nhất Nguyễn Đại Bản cũng nhờ đến sự giúp đỡ của đại sứ quán Peru tại Chile. Lá thư giới thiệu thứ hai cũng được tức tốc fax về ngay trong ngày.



Sau gần một tuần chờ đợi, đích thân Giám đốc Viện văn hoá quốc gia cho tôi một cái hẹn làm việc. Tôi vừa mừng thầm, vừa yên tâm tin chắc mình sẽ cầm một chiếc giấy phép trong tay. Nhưng tôi lầm, sau khi bắt tay thăm hỏi xã giao, INC lịch sự trả lời ngắn gọn: “Xin lỗi, chúng tôi không thể cấp giấy phép cho anh”.



Nhà thờ tại Cuzco-kinh đô của đế chế Inca xưa

9.jpg




Tờ giấy phép may mắn

Mọi ngã đường dường như bịt kín. Đúng lúc thất vọng não nề, B.-người phiên dịch giúp tôi rất nhiều trong thủ tục xin giấy phép tại INC- mới nhẹ nhàng gợi ý: “ Tôi có thể giúp anh xin giấy phép với giá 400 usd”. Để chứng minh, B. lôi ra một xấp bản copy giấy phép đã xin được cho những du khách. Khá nhiều. GIấy phép xin được gần nhất là tháng 5/2008: “Yên tâm đi, tôi làm nhiều lần rồi. Tuy nhiên, vụ này ngày càng khó vì kiểm tra rất gắt gao, lại thông qua rất nhiều cưả.” Bốn trăm usd là con số không nhỏ, nhưng tôi đã đầu tư quá nhiều cho chuyến đi này (tiền bạc, công sức, bỏ học, bỏ việc…), tôi nhận lời.Nhưng đến phút chót, B. gọi lại: “Xin lỗi, họ không dám cấp phép cho anh vì... sợ bị lộ!”.



Dời lại vé máy bay, tốn tiền thuê hướng dẫn viên… Hơn 10 ngày tất tả tìm đủ cách để đi cho được con đường Inca này cuối cùng cũng công cốc. Tôi gọi điện cho đại sứ quán Việt Nam để gởi lời cảm ơn và chào tạm biệt thì một phép lạ ở phút 89 xuất hiện. Đúng lúc đó, đại sứ Việt Nam Nguyễn Văn Tích đang công tác tại Peru. Biết chuyện, ông liền liên lạc trực tiếp vơí ban tổ chức APEC 2008 (Peru là nước đăng cai tổ chức APEC 2008), và bộ ngoại giao Peru nhờ can thiệp. Những cú gọi điện thoại, email tới tấp từ cấp cao hơn đã giúp tôi nhận được tờ giấy phép đặc biệt từ đích thân giám đốc INC. Con đường Inca huyền thoại tưởng đã đóng chặt bất ngờ lại hé ra đón người lữ hành Việt Nam cuôí cùng…



Nhóm trekking quốc tế: 1 Việt Nam, 2 Bỉ, 2 Canada.

2c.jpg




Cuộc du hành lúc nửa đêm

Theo lịch, sáng thứ 3, ngày 8/7, chúng tôi sẽ lên xe bus đến điểm xuất phát đầu tiên, Km82, để bắt đầu con đường Inca. Tuy nhiên, 7h30 đêm trước ngày xuất phát tôi bỗng nhận cú điện thoại triệu tập bất ngờ: “ Ngày mai cả nước bỉểu tình, mọi ngả đường đều bị chặn. Cả đoàn phải xuất phát ngay trong đêm nay, lúc 11h đêm”. Tức tốc lên mạng, hàng loạt đại sứ quán các nước đều thông báo khẩn: “ Bạo động có thể xảy ra, mọi người không nên ra ngoài đường vào hai ngày 8 và 9/7”… Không phải chỉ riêng đoàn tôi, những nhóm ở đoàn khác cũng lên xe bus đến điểm tập kết ngay trong đêm.



Chặn đường đốt vỏ xe

4.jpg




Người hướng dẫn viên đã nói sai. Mọi ngã đường không phải bị chặn vào ngày mai, mà …ngay trong đêm chúng tôi khởi hành. Vưà ra khỏi trung tâm thành phố Cuzco không xa, đã thấy những đống đá to trên đường. Xe chạy thỉnh thoảng phải dừng lại, mọi người xuống xe, dẹp đá vào vệ đường rồi tiếp tục. Tuy nhiên, mọi việc trở nên căng thẳng khi gần đến điểm xuất phát. Đường ngày càng nhỏ, đất đá đổ ra đường ngày càng nhiều. Đang cặm cụi dẹp đá, thì một nhóm người với gậy gộc trên tay, mặt mũi “đằng đằng sát khí” bước đến: “ Ai cho tụi mày dẹp?”, Hướng dẫn viên người Quechua phải chạy đến giải thích. Hồi lâu, chúng tôi, những khách du lịch người nước ngoài, được đi tiếp nhưng…đi bộ. Xe bus, hướng dẫn viên cùng với những người porter phải ở lại vì “tụi mày là người của chính quyền”. Một số người quá khích nhảy lên xe, la hét um sùm, rồi như để trút giận, họ lôi cái bánh xe sơ cua trong xe đem ra đốt. Hướng dẫn viên nói nhỏ: “ Xin các anh im lặng mà đi. Bất cứ kháng cự nào sẽ dễ xảy ra chuyện lớn”. Cũng may, điểm tập kết chỉ cách gần 1 tiếng đi bộ. Chúng tôi đi mà lòng cứ lo ngay ngáy. Vưà lo cho những người porter ở lại, vưà lo không biết sẽ ngủ ở đâu vì những người porter giữ hết lều, túi ngủ. Hơn 3h sáng, những người porter đến. Họ phải đi ngược lại, kiếm đường vòng băng qua suối để đến nơi tập kết. Giấc ngủ muộn, chập chờn chuẩn bị cho con đường Inca sắp đến được bắt đầu vào lúc 4h sáng…



Điểm cắm trại

12.jpg






Đường mòn Inca dẫn đến Machu Picchu chỉ là một đoạn trong hệ thống đường Inca với tổng chiều dài lên đến 23.000km nhưng chỉ dùng để…đi bộ. (người Inca không có ngựa cũng như xe kéo để đi lại như ở Châu Âu, Á). Tuỳ theo địa hình mà con đường có thể rộng 8m (ven biển) và hẹp chỉ 1m (ven núi), gồm hai nhánh chính: đường ven biển dài hơn 4000 km rộng 8m, và đường dọc theo dãy núi Andes dài 5200 km cùng vô số nhánh nhỏ khác. Các đoạn dốc đứng được xử lí bằng những bậc thang xây bằng đá, có bờ kè an toàn để tránh rơi xuống vực.

19.jpg






Điểm xuất phát cung đường Inca, km 82, đến kì quan thế giới Machu picchu

5.jpg




Bonus thêm vài hình gái Peru coi cho đỡ ngán

7.jpg






8.jpg






16.jpg
 
Nền văn minh Inca- đế chế hùng mạnh nhất Nam Mỹ thế kỷ 15-16. Thành phố đá machu Picchu là một trong bảy kỳ quan thế giới năm 2007. Cung đường Inca với tổng chiều dài hơn nửa vòng trái đất vượt qua bao vực đèo hiểm trở đã được xây dựng cách đây hơn năm thế kỷ. Những bức tranh bí ẩn rộng ngót 500 km2 ( gần bằng đất nước Singapore) trên sa mạc Nazca….Tất cả những điều đó đã thôi thúc tôi vác ba lô lên đường đến Peru.



bandohanhtrinhPeru-1.jpg




Ngủ bụi và taxi Peru

Hơn mười tiếng bay từ Mỹ, tôi đặt chân đến Peru đã gần một giờ sáng. Để tiết kiệm 30 usd thuê khách sạn, tôi quyết định tìm một góc nào đó tại sân bay rồi ngả lưng chờ trời sáng. Những tưởng mình là “dân chơi” thứ thiệt rồi vậy mà vẫn phải loanh quoanh hồi lâu mới tìm ra một chỗ tạm ổn vì những vị trí ngon lành (sạch sẽ, gần nơi qua lại của nhân viên sân bay để an toàn hơn) đã có những “phược thủ” thứ thiệt (dân balô chuyên nghiệp) đóng giữ. Giấc ngủ bụi chập chờn, co ro trong cái lạnh cóng người rồi cũng trôi qua, sáu giờ sáng, tôi bắt taxi vào trung tâm, tìm đường lên Puno - điểm khởi đầu của cung đường lang thang- cách Lima hơn 1000 km.



Qua đêm ở sân bay

ngusanbay.jpg




Người ta nói Peru là bãi rác của xe hơi quả thật chính xác. Peru rất hiếm xe máy, chỉ toàn xe hơi nhưng hầu hết là xe đời cũ từ thế kỉ trước. Chiếc taxi chở tôi móp méo và đầy “sẹo”, cưả kiếng quay bằng tay nhưng quay mãi không chịu lên. Qua ổ gà cả xe và người cứ rung lên bần bật. Quái hơn, gần tay lái lại treo lủng lẳng một chiếc giày trẻ em bé xíu, cũ kĩ. Người tài xế giải thích bằng thứ tiếng Anh bồi pha Tây Ban Nha: “ Buà đấy! Nếu trên đường, bắt được một chiếc (không phải đôi) giày của trẻ con mơí biết đi, đó là điều cực kì may mắn. Người Peru tin rằng, những bước đi của trẻ con, sẽ dẫn họ những bước đi đúng đắn, tránh những tai nạn đáng tiếc có thể xảy ra”. (Trong suốt gần hai tháng lang thang, thỉnh thoảng tôi vẫn thường thấy điều này trên các chuyến xe khắp Peru).



Những tưởng chiếc taxi này chiếm ngôi vô địch xe “cùi” ở Peru rồi nhưng chạy ra đường mới thấy nó haỹ còn tốt chán so vơí các xe khác. Đường nhỏ, có dải phân cách nhưng xe cứ chạy tán loạn, vượt cả đèn đỏ. Kinh khủng nhất là tình yêu âm nhạc vô bờ bến của ông tài xế. Trên xe mở nhạc ầm ĩ, vưà lái ông vưà lắc lư, hát theo một cách hào hứng. Đến đoạn cao trào, ông bỏ cả tay lái, vỗ tay, vỗ đùi, lắc hông nhún nhảy theo bài hát… Cũng may là đoạn đường từ sân bay đến trung tâm không xa, nếu không, có lẽ tôi đã đứng thở mà chết.



Xe đò ở Peru

1a.jpg




Con cháu thần mặt trời cũng phải mưu sinh

Vị thần tối cao của đế chế Inca chính là thần mặt trời Inti. Vì thế, người Peru vẫn tự xem mình là con cháu thần mặt trời. Từng là một đế chế hùng mạnh nhất Nam Mỹ với lãnh thổ trải dài 4000 km từ Bắc xuống Nam bao gồm các quốc gia hiện nay là Peru, Ecuador, một phần các nước Colombia, Bolivia, Argentina và Chile; từng là dân tộc sở hữu những khối vàng có thể luyện thành sợi dây xích khổng lồ dài hàng chục km nhưng con cháu thần mặt trời, hậu duệ của đế chế Inca hùng mạnh, ngày nào bây giờ lại phải đương đầu với chướng ngại đời thường nhất: mưu sinh.



Hai mẹ con bán nhúm trái cây giá chỉ 5 hào (3000 đồng Việt Nam) tại Cuzco

1b-2.jpg




Bà già bán muỗng dĩa tại Juliaca

market3.jpg




Nhận xét về Peru chỉ gói gọn trong một chữ: Nghèo. Tại quảng trường trước phủ tổng thống, thủ đô Lima, nhan nhản những em bé, thanh niên, bà già cầm những bịch kẹo rẻ tiền, những cuộn giấy vệ sinh tính luôn vốn giá chỉ khoảng nưả sol ( đơn vị tiền tệ Peru, 1 sol = 6000 đồng Việt Nam). Trong khi đó, một bữa ăn trung bình tại Lima giá khoảng bốn-năm soles. Họ rao, họ mời mọc nhưng hoàn toàn không chèo kéo. Trên gương mặt khắc khổ hiện lên một vẻ cam chịu. Họ làm tôi nhớ đến Tây Tạng. Cũng những gương mặt nám đỏ vì cháy nắng, cũng những bộ đồ cũ kĩ, cũng những cái nhìn nhẫn nhục… Người nghèo ở đâu sao cũng giống nhau đến thế.



Ông già bán những sợi roi làm bằng lông con alpaca hoặc llama dùng để chăn gia súc và...đánh con (không đùa tí nào), chỉ với giá 1 sol ( 6000 đồng Việt Nam)

market5.jpg




Đánh giày cũng là cách kiếm sống phổ biến của người Peru

1d.jpg




Peru có rất ít trạm điện thoại công cộng mà thay vào đó, ngay mỗi góc đường đều có những cô gái, thanh niên, cầm sẵn vài cái điện thoại di động để khách qua đường thuê gọi. năm hào/phút ( ba ngàn đồng Việt Nam). Vanessa, cô điện thoại viên 15 tuổi, cho biết: “Tôi bắt đầu làm từ bảy giờ sáng và kết thúc vào tám giờ rưỡi tối, một tuần bảy ngày được trả lương 300 soles (khoảng 100 usd/tháng)”. Đó là còn may mắn, có người phải đạt chỉ tiêu có khách gọi đủ 400 soles/ ngày mới được tiền lương là tám đến mười soles/ngày (khoảng sáu mươi ngàn đồng Việt Nam) Không đủ chỉ tiêu, thì chỉ được bao cơm, không có lương. Nhẩm một phép tính đơn giản, nếu trung bình mỗi người gọi một cuộc hai phút (tương đương một sol) thì một ngày họ phải mời được bốn trăm khách gọi. Đến Peru thì biết, những điện thoại viên di động như vậy nhiều vô kể ở mỗi góc đường, vì thế mức độ cạnh tranh cao khủng khiếp. có người phải bắt đầu công việc từ 5h30 sáng hòng mong kiếm thêm được vài người khách.



Một điện thoại viên bị mù, anh ta phải lấy dây xích để buộc điện thoại xung quanh người để khỏi bị giựt chạy mất.

2.jpg




Chợ ước mơ

Cuộc sống càng khó khăn, con người thường đặt niềm tin tâm linh càng mãnh liệt. Có lẽ vì thế, ở các vùng miền núi Peru có một chợ khá lạ đời: chợ ước mơ. Thật ra, chợ ước mơ cũng giống chợ hàng mã ở Việt Nam, nhưng hàng mã dành cho người chết còn chợ ước mơ dành cho người sống. Hầu như mọi ước mơ trên đời đều có bán tại đây. Họ bán từ những ước mơ giản dị nhất như: cái nồi đất có gạo chảy tràn ra ngoài với mong ước luôn có đủ cơm ăn cho đến bán cái xe đạp, cái máy vi tính cũ (bằng bột) để phục vụ cho những mong ước nhất thời. Những bạn trẻ thường đến chợ để mua những bằng đại học, hay những cái buà hộ mệnh với ước mơ mình sẽ học hành đỗ đạt. Thậm chí, chợ ước mơ còn bán cả hộ chiếu, va li (hàng mã) để phục vụ cho mong ước đi nước ngoài. Vào ngày 3 tháng 5 hàng năm, lễ Alasitas, người dân thường kéo nhau lên núi, mang theo những món đồ nhỏ xiú tượng trưng cho ước mơ của mình. Để ước mơ được thực hiện, họ mời những ông thầy cúng niệm chú và hơ những món đồ mơ ước lên trên làn khói được đốt từ bột trầm, cỏ thơm. Sau đó, họ mua bia đổ xung quanh những ước mơ đó, và vui vẻ tổ chức ăn mừng vì họ luôn tin tưởng rằng những mơ ước chắc chắn sẽ thực hiện trong tương lai. (Dĩ nhiên, có những ước mơ chằng bao giờ được thực hiện, nhưng người Peru vẫn luôn tin tưởng tuyệt đối vào điều đó). Và cũng vì thế, chợ ước mơ lúc nào cũng đông khách.



"Ước mơ" của người dân Peru

market-1.jpg




Box:

Peru là quốc gia thuộc Nam Mỹ, diện tích gấp 4 lần Việt Nam ( 1.285.220 km2) nhưng dân số chỉ bằng 1/3 Việt Nam (chưa đến 30 triệu người). Peru hiện là quốc gia đang phát triển, thu nhập bình quân năm 2006 là 3616 USD (gấp 4 lần Việt Nam) nhưng do phân hoá giàu nghèo quá cao nên đến 51,6% dân số Peru sống dưới mức nghèo và 19,3% dân số sống ở mức rất nghèo. (Wikipedia)





Đón xem bài 2: Muốn đến kì quan thế giới mới Machu Picchu thật ra có đường dễ hơn rất nhiều, Đó là đón xe lưả từ trung tâm thành phố Cuzco chạy một mạch 5 tiếng là đến. Nhưng cách đó chỉ dành cho những người ít thời gian, không thích mạo hiểm. Muốn hiểu biết sâu về văn hoá của dân tộc từng làm bá chủ cả vùng Nam Mỹ này, phải đi bộ đến Machu Picchu bằng con đường Inca huyền thoại.
 
Đường đến kì quan thế giới, Machu picchu
3a.jpg




Chưa đến 100 năm, với bàn tay và công cụ thô sơ người Inca đã làm được một kì tích: xây dựng một hệ thống đường với tổng chiều dài gần 23000 km (hơn một nưả chiều dài đường xích đạo). Pedro de Cieza de Leon, một người lính Tây ban nha năm 1540 đã thốt lên: “ Tôi không tin việc ghi chép về một con đường nào khác có thể sánh với con đường này, con đường chạy xuyên qua các thung lũng sâu rồi đến các đỉnh núi cao (hơn 5000 m so với mực nước biển), len lỏi qua tuyết, đầm lầy, đá…”



Cung đường huyền thoại

Trong hàng ngàn con đường được xây dựng thời kì tiền Columbo tại Châu Mỹ, cung đường Inca đáng được chú ý nhất. Tuy nhiên, nổi tiếng và được giới balô chuyên nghiệp ao ước có cơ hội được đi nhất là đoạn đường từ Ollantaytambo (km 82) đến Machu Picchu, một trong bảy kì quan thế giới mới,. Tuy chỉ dài 45 km, nhưng đoạn đường này còn đi qua rất nhiều công trình kiến trúc có một không hai còn sót lại của nền văn minh Inca.



Xuất phát

2b.jpg




Xuất phát từ km 82 ở độ cao 2600m, ngày đầu tiên chỉ như bước khởi động nhẹ nhàng: 12 km đường núi để tập kết ở độ cao 3000m, gấp đôi Đà Lạt. Chúng tôi vượt qua sông Urubamba bằng chiếc cầu treo để chính thức bước vào con đường Inca. Sam, bạn đồng hành ngưòi Canada, chỉ vào hai trụ beton to đùng và mấy sợi dây thép to bằng ngón chân cái của chiếc cầu treo, rồi nheo mắt chế nhạo: “ Ồ! Người Inca thật văn minh, từ thế kỉ 15 đã biết dung beton, thép để làm cầu rồi”, Henry, người dẫn đường, có vẻ hơi ngượng: “À, chiếc cầu treo này đã được phục chế để đảm bảo an toàn cho 500 lượt người mỗi ngày. Cầu treo nguyên bản của người Inca được làm từ các sợi dây thừng ( bện từ cuống hoa khô của loại cỏ q’oya) đường kính đến 20 cm, rồi căng ra các trụ đá hai bên sông.Ở phiá tây Cuzco, kinh đô cũ của người Inca, có chiếc cầu treo bắc qua sông Apurimac dài đến 60m. Tiếc là đến nay đã không còn nữa” .



Cầu treo bước vào con đường Inca

2a.jpg




Con đường Inca như con rắn khổng lồ len lỏi qua những khe núi bên cạnh dòng sông Urubamba đang cuồn cuộn chảy xiết qua các gềnh đá để trườn lên những ngọn núi phủ đầy tuyết trắng trước mặt…Đi chừng vài tiếng, từ xa đã thấy hiện ra sừng sững: những ruộng bậc thang với hàng chục bậc, những khu nhà lớn “cắn” thẳng vào một góc núi (tất cả được xây bằng đá): Llactapata. Đây chính là một trong 2000 kho lương thực, trạm nghỉ do nhà nước Inca tổ chức dọc hệ thống đường Inca 23.000 km. Nhìn vào sự đồ sộ của Llactapata, tôi mới thật sự tin những gì đã đọc trong sách: “dọc tuyến đường Inca có những kho lương thực có thể đáp ứng cho 25 ngàn người cùng một lúc. Vì thế, quân của đế chế Inca có thể tiến quân, xâm chiếm các bộ tộc khác mọi lúc, mọi nơi”.



Kho lương thực Llactapata

3a-1.jpg




Cư dân trên con đường Inca

10.jpg




Leo đỉnh “Người đàn bà chết”

4h30 sáng, chúng tôi được đánh thức bằng một ly trà coca nóng (nấu từ lá coca, loại dung để sản xuất cocain). Henry, người dẫn đường, cười động viên: “ Uống đi! Nước tăng lực của người Inca đấy! Uống để có sức vượt đèo”. Đúng như lời Henry cảnh báo, đây chính là ngày kinh khủng của hành trình: vượt qua đèo “Người đàn bà chết” cao 4215m so với mực nước biển. Hàng ngàn bậc thang bằng đá cứ thế nối tiếp nhau lẫn vào trong mây lên cao, lên cao mãi… Henry dừng lại giữa đèo, đưa cho những porter ( người thồ hàng) trong đoàn một vốc lá coca. Họ vui ra mặt. Người porter trịnh trọng mặt ngưả lên trời, thổi nhẹ vào mấy chiếc lá coca cầm trong tay để thể hiện sự kính trọng, cảm ơn đối với núi, trời rồi bỏ vào miệng nhai. “ Nhai lá coca sẽ giúp họ không cảm thấy đói khát, mệt mỏi”, Henrry, hướng dẫn viên người Quechua giải thích rồi đưa tôi thử. Chẳng có mùi vị gì đặc biệt, nhưng tôi cảm thấy phấn chấn hơn, leo dốc đỡ mệt hơn. (Sau này tôi mới biết lá coca giúp tạo sự thăng bằng cho cơ thể khi thiếu ôxy ở độ cao hơn 4000 m)



Nhai lá coca là một liều thuốc tăng lực hữu hiệu của người Inca (Người porter tay đang cầm nắm lá coca)

11.jpg




Cách đây hơn 500 năm, người Inca không biết đến con ngựa, họ cũng chẳng biết đến bánh xe. Vì thế mọi phương tiện giao thông, liên lạc đều bằng đôi chân. Họ truyền tin bằng chạy cách “chạy tiếp sức”. Khi nhận được thông tin, các chasquis (người truyền tin) sẽ chạy hết tốc lực đến trạm kế tiếp cách đấy khoảng 1-2 km. Tại đây một chasquis khác sẽ nhận thông tin và tiếp tục chạy đến trạm tiếp theo. Bằng cách này, mọi thông tin được truyền đi đến mọi miền đất nước với tốc độ đáng kinh ngạc: 400 km/ngày. Ngày nay, trên con đường này, chúng tôi cũng “lết” lên được đến đỉnh “Người đàn bà chết” cao 4215m lúc gần 1h trưa. Sáu tiếng đồng hồ cho …9 km.



Trước khi rời khỏi đèo, Henry và những người porter yêu cầu chúng tôi nắm tay nhau, kết lại thành vòng tròn: “Đây là vòng tròn tình thương. Chúng ta hãy cùng gởi sự tôn kính đến thần núi Veronica, ngọn núi cao 5800 m phủ tuyết trắng xoá trước mặt. Chính ngài sẽ tiếp thêm sức mạnh, phù hộ cho chuyến đi chúng ta được bình an”. Rồi không ai bảo ai, Henry cùng những người porter cùng cất lên những lời cầu nguyện bằng tiếng Quechua với vẻ rất thành kính. Chính trong khoảnh khắc này, tôi mới chợt nhận ra, Tây Ban Nha đã thất baị trong nỗ lực đồng hoá Peru, thuộc địa của mình. Sau hơn 500 năm, dù tiếng Tây Ban Nha đã trở thành quốc ngữ tại Peru, dù những công trình kiến trúc ở Peru đều ít nhiều mang phong cách Tây Ban Nha nhưng bản sắc văn hoá, những lễ nghi, niềm tin vào các thần linh trong thiên nhiên của người xưa vẫn luôn trường tồn. Peru mãi là Peru.



Con đường Inca

17.jpg




Porter- những người hùng thầm lặng

Chẳng có điều gì nghi ngờ, anh hùng trên con đường Inca chính là các porter- những người thồ hàng cho đoàn. Chính họ phải cõng trên vai lều, bạt, thức ăn cho cả đoàn. Cùng đi, nhưng họ phải đến trước để nấu ăn, căng lều cho khách. Khi khách đi ngủ, chính họ phải lụi cụi xuống suối rưả chén bát, sưả soạn đồ ăn cho bữa tiếp theo…



Leo dốc đã khó, xuống dốc còn khó hơn. Đường đèo hẹp tí, dốc dựng đứng. Vưà qua cơn mưa, hàng ngàn bậc đá phủ rêu trơn như bôi mỡ, ẩu 1 tí là có thể trượt chân, lăn xuống vực bên cạnh dễ như bỡn. Vậy mà các porter vơí túi đồ khổng lồ nặng vài chục kí trên lưng chạy xuống dốc như đang làm xiếc với tốc độ kinh hồn. Henry cho biết: “Trong một cuộc thi chạy gần đây từ km 82 đến Machu Picchu do chính quyền Peru tổ chức, một porter người Quechua chỉ tốn… 5h45 phút để hoàn thành con đường mà chúng ta mất gần 4 ngày!”



Peru đang vào đông, trời lạnh ngắt, mấy người trong đoàn ai nấy đều đứng run lập cập, miệng suýt xoa dù áo ấm sù sụ, giầy đến 3,4 lớp vớ. Trong khi đó, những người porter chỉ 2 chiếc áo thun cũ mèm, đôi chân trần nứt nẻ, đen đuá, móng chân hãy còn vết phèn, chỉ mang độc một chiếc dép lốp (như dép râu bộ đội ở Việt Nam). Thấy người porter già trên lưng là đống đồ to đùng đang cặm cụi bò lên dốc trong nắng chiều. Theo quán tính mỗi khi chụp hình, tôi mở miệng nói với người porter: “ Tôi chụp hình nhé. Cười lên nào”. Ông già quay lại, gương mặt xạm đen đầy nếp nhăn đầm đià mồ hôi hướng về máy chụp hình cố gắng gượng cười. Nói xong mới thấy hối hận vì mình quá vô tâm. Hai hình ảnh nghĩ lại thấy bất nhẫn. Một thằng thanh niên khoẻ mạnh trên lưng chỉ có máy chụp hình và một số đồ linh tinh nặng chừng chục kí, một ông già 50 tuổi lụm cụm trên lưng là đống đồ không dưới 30 kí đang đè nặng trên vai. Vẫn biết là phân công xã hội. Vẫn biết thồ hàng là công việc của porter. Nhưng nghĩ lại vẫn thấy xót xa…Gánh đồ vài chục kí mỗi chuyến thồ hàng xem ra haỹ còn nhẹ hơn nhiều so với gánh nặng cuộc sống…



Những đôi chân trần...

6.jpg




Ông Hugo, 50 tuổi, vẫn đều đặn làm porter khuân vác hàng, mỗi tuần một chuyến (4 ngày) để kiếm tiền nuôi gia đình với 4 người con.

3c.jpg




Trời lạnh muà đông, vùng núi cao lạnh khủng khiếp nhưng những porter nhí vẫn chỉ quần cụt, chân trần đi dép lốp, với túi hàng khổng lồ sau lưng.

18.jpg
 
Kì quan thế giới Machu picchu
IMG_4730.jpg


Dãy núi phía sau lưng Machu Picchu có hình dạng y đúc gương mặt của người đàn ông ngửa lên trời…





Ngày thứ tư của hành trình, khi trời hãy còn tối mịt, tiếng của người porter đã ồm ồm ngoài cưả lều: “ Buenos días, coca tea ( xin chào, trà coca đây!)”. Ly trà coca luôn bắt đầu cho một ngày đi bộ rã rời. Chúng tôi rời điểm cắm trại từ 4h45 sáng. Đi thật sớm để đón bình minh tại cổng Mặt trời -cửa ngõ bước vào kì quan thế giới Machu Picchu.



Thành phố đá

Chúng tôi đến cổng mặt trời Intipunku khi sương mù hãy còn dày đặc. Té ra chúng tôi chẳng phải là người đầu tiên, cả trăm khách bộ hành trên đường Inca đủ mọi màu da gần như tề tựu đông đủ tại đây để ngắm mặt trời mọc. Khi ánh bình mình đâù tiên vưà ló dạng, mọi người bỗng im bặt, nín thở dõi theo từng bước đi của ánh mặt trời. Kì quan thế giới Machu Picchu dưới thung lũng từ từ hiện ra giữa lớp mây mù, như đang vươn vai bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài. Khi ánh mặt trời thật sự chan hoà xuống thành phố đá Machu Picchu, mọi người chẳng ai bảo ai cùng vỗ tay, nhún nhảy la hét như trẻ con được quà, rồi bất kể quen lạ, họ lao vào ôm hôn nhau... Thật tiếc, đứng cạnh tôi không phải là một cô gái tóc vàng xinh đẹp mà là một anh da đen khổng lồ. Anh ta ôm ghì tôi như xiết con nhái bén… Người dẫn đường chỉ vào hai tảng đá khổng lồ ở cổng mặt trời Intipunku: “ Vào đông chí và hạ chí, Intipunku được mặt trời chiếu sáng bởi những chùm sáng như tia laser nhìn cực kì hấp dẫn”. Tôi đến đây vào đầu tháng 7, đã qua đông chí ( ngày 21/6), nên chẳng thấy được “chùm sáng mặt trời như tia laser” hấp dẫn thế nào, nhưng đón ánh bình minh đầu tiên tại kì quan thế giới cũng đủ là một kỉ niệm khó quên.



Ngắm mặt trời mọc ở cổng mặt trời Intipunku

30.jpg






Tảng đá thiêng khổng lồ của người Inca tại cổng mặt trời

32.jpg




Thánh địa Machu Picchu

Không đồ sộ, vĩ đại như Vạn Lí Trường Thành của Trung Quốc, cũng chẳng có tuổi thọ hơn 4000 năm như bãi đá Stonehenge (Anh), nhưng Machu Picchu, thành phố nhỏ nằm lẫn khuất trong rừng già trên dãy núi Andes, đã lần lượt vượt qua những “đối thủ sừng sỏ” như: quần thể Angkor (Campuchia), Stonehenge (Anh), những bức tượng trên đảo Phục Sinh (Chile)… để trở thành một trong bảy kì quan thế giới mới. Không phải ngẫu nhiên mà hơn 100 triệu lượt bầu chọn của mọi người trên toàn thế giới cùng hội đồng tuyển chọn là những kiến trúc sư hàng đầu của năm châu lục lại chọn Machu Picchu là một trong những di tích khảo cổ đẹp và bí ẩn nhất trên thế giới.



Machu picchu

33.jpg




Một trăm bốn mươi công trình tại Machu Picchu gồm nhà ở, đền đài, công viên, nơi thờ cúng trên diện tích 5 km2 này đều được xây dựng bằng đá. Tương tự Kim Tự Tháp Cheops (Ai Cập), Machu Picchu được dựng lên từ những viên đá nặng hàng tấn (có viên nặng đến 50 tấn). Những viên đá này được sắp lên nhau mà không dùng bất cứ loại hồ vữa kết dính nào. Đặc biệt hơn, các viên đá này đều có hình dạng, và khối lượng khác nhau hoàn toàn, có viên có đến 30 góc. Dù vậy, tất cả được mài nhẵn đến độ không thể nào lách nổi lưỡi dao vào giữa các mối nối(!) Và một điều bí ẩn đến nay vẫn chưa có lời giải đáp thoả đáng là người Inca không sử dụng bánh xe, làm sao họ có thể đặt những phiến đá lớn lên nhau một cách chính xác đến thế? Người Inca không có chữ viết, để lưu trữ, truyền đạt thông tin, họ có hệ thống các nút thắt Quipu. Đáng tiếc, các nút thắt Quipu cũng chính là một trong những bí mật làm đau đầu các nhà khoa học trên thế giới.



Tảng đá thiên văn của người Inca

31.jpg




Tui cũng không biết người Inca xưa đã đục cái lỗ xuyên qua đá này bằng cách nào?

28.jpg




Henry nháy mắt chỉ vào đỉnh núi cùng tên Machu Picchu trước mặt: “ Trên đó thiêng lắm, dám leo thử không?”. Bốn ngày bộ hành trên con đường Inca đèo núi đã vắt kiệt sức của chúng tôi …Cả đoàn chẳng ai lên tiếng. Tôi ngước mắt nhìn lên đỉnh núi lẫn trong mây, không cưỡng được sự tò mò, tôi đồng ý. Hai tiếng rưỡi đồng hồ trôi qua, khi đầu gối muốn long ra cũng là lúc tôi bò đến đỉnh núi. Lên mới thấy ngợp, gió thổi ào ào như muốn bạt cả người xuống vực. Có quá nhiều giả thuyết cho rằng Machu Picchu là nơi phòng thủ cuối cùng của người Inca, là cung điện của vị vua vĩ đại Pachacuti (người được sánh với Thành Cát Tư Hãn của Mông Cổ khi thống lĩnh một đế chế hùng mạnh nhất Nam Mỹ thế kỉ 15)… Tuy nhiên, tôi nghiêng về giả thuyết Machu Picchu là thánh địa, nơi thực hiện các nghi lễ cúng, tế thần của người Inca hơn. Từ đỉnh núi nhìn xuống, cả thành phố đá nằm lẫn trong mây, lọt thỏm giữa núi rừng, vách đá dốc đứng hàng trăm mét như tấm áo giáp che chở. Hai ngọn núi Machu Picchu và Huayama Picchu và hai khe núi bao quanh thành phố chỉ chính xác bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc không sai một tí.



Hầu hết du khách đến Machu picchu đều tốn trên dưới 1 tiếng đồng hồ để leo lên đỉnh Huayama Picchu (2743m), nhưng ít người lên cái đỉnh cùng tên Machu picchu ở phiá đối diện chỉ vì nó...cao hơn nhiều(3140m). Đây là góc nhìn từ đỉnh Machu picchu xuống

22.jpg




Henry đưa tôi cầm ba chiếc lá coca và yêu cầu tiến gần đến mấy đống đá nhỏ được xếp vun lên cao ngay trên đỉnh núi. “Làm gì thế?”, tôi thắc mắc. Henry ra hiệu im lặng, rồi yêu cầu tôi tự ước ba điều ước và bắt chước theo hành động của anh ta. Henry đứng thẳng, vẻ mặt trang nghiêm khác thường, rồi ngưả mặt lên trời, thổi nhẹ vào ba chiếc lá cầm trên tay, miệng lầm rầm bằng tiếng Quechua. Xong, anh đặt ba chiếc lá coca lên đống đá và chèn một viên đá khác lên trên. Đợi mọi người xong, anh mới chậm rãi giải thích: “ người Inca quan niệm có ba “thế giới”: đại bàng biểu tượng cho thế giới trên trời; báo biểu tượng cho thế giới trần gian và rắn biểu tượng cho thế giới dưới lòng đất . Mỗi chiếc lá coca tượng trưng một lời ước nguyện cho mỗi thế giới. Họ tin rằng ước nguyện trên đỉnh núi cao sẽ dễ thành hiện thực vì “gần” với trời, nên trời “dễ nghe” hơn”…



Đống đá thiêng tại đỉnh Machu picchu

24.jpg




Chiếc máy chém ngọt ngào

Nói đến Peru là nói đến Machu Picchu. Vì biết thế, chính quyền Peru ra sức khai thác tối đa kì quan thế giới này. Ngoài bộ hành trên đường mòn Inca, muốn đến Machu Picchu chỉ có duy nhất đường xe lưả nên nhà ga tha hồ hét giá. Nếu như người dân Cuzco mua vé tàu khứ hồi đến Machu Picchu chỉ khoảng năm usd thì khách nước ngoài phải trả đến… 96 usd/người. Chưa kể phải trả thêm tiền xe bus 14 usd từ ga đến Machu Picchu. Du khách muốn tham quan Machu Picchu, phải tốn ít nhất 170 usd/người. Làm một phép tính đơn giản, chỉ riêng Machu Picchu, chính quyền đã thu được gần nưả triệu đô la/ngày (khoảng 8 tỉ đồng Việt Nam). Một lợi nhuận khổng lồ! Đó là chưa kể một bữa ăn trưa buffet có giá hơn 30 usd, một chai nước suối nhỏ giá gần bốn đô (trong khi mua tại Cusco giá chưa đến nưả đô), cái hambuger đáng giá chừng hai đô, Machu Picchu bán 11 usd… Du khách bị “chém” bằng lưỡi dao bén ngót, có bực cũng ngậm bồ hòn làm ngọt vì không có sự lựa chọn.





Box: Machu Picchu là một khu di tích Inca, nằm trên thung lũng Urubamba tại Peru ở độ cao 2430 m. Được xây dựng từ thế kỉ 15, nhưng hơn 400 năm sau, mãi đến năm 1911, nhà khảo cổ học Hiram Bingham người mới tái khám phá, và viết một cuốn sách về Machu Picchu làm thế giới sửng sốt. Năm 1983, Machu Picchu được UNESCO công nhận là địa điểm di sản thế giới và được bình chọn là một trong 7 kì quan thế giới vào năm 2007.



Đây cũng là một nhánh trong cung đường Inca men theo vách núi chỉ rộng vưà đúng một người đi. không có taluy, tay vịn. Sẩy chân là té xuống vực, chết chắc.

21.jpg






Đến Machu picchu 2 lần, tôi đều gặp ông Mỹ này. Ông này có một công ty khá lớn, công việc như núi nhưng cứ đều đặn mỗi năm, ông lại đến Machu picchu ở cả tuần lễ. Mỗi sáng cặm cụi leo lên đỉnh núi cao 3140m này chỉ để nằm ngắm mây bay, đọc sách và...ngủ.

"Rằng xưa có gã từ quan,

Lên non tìm đỉnh Ma chù ngủ say". Âu đó cũng là một cái khoái, nhỉ?


25.jpg


 
Quần đảo kì lạ và thân phận người Inca cổ “ Đảo chúng tôi ở phải buộc vào một tảng đá thật lớn để neo lại. Bữa nọ, gió to quá, bứt dây neo, nguyên cái đảo trôi qua tận Bolivia…” Với vẻ mặt nghiêm trang, Javier, hướng dẫn viên trẻ người Peru, kể về nơi anh ta ở một cách say sưa. Chúng tôi không ai nhịn được cười, không ngờ ở Peru cũng có người như “bác Ba Phi”, nói dóc như thật. Javier có vẻ phật lòng, anh nói: “ Có dám đánh cược không? Tôi sẽ dẫn các anh đến đấy”. Ừ, thì cược! …



Những hòn đảo trôi

Không chỉ riêng tôi, những người bạn nước ngoài cũng háo hức và sốt ruột chờ xem “cái đảo biết trôi” của Javier. Thì ra nó nằm ngay trên cái hồ Titicaca nổi tiếng. Đây là hồ cao nhất thế giới có thể đi thuyền được (cao 3813 m so vơí mực nước biển). Giữa mặt hồ xanh thẳm, rộng ngút tầm mắt, hòn đảo Javier ở nằm lẫn giữa đám lau sậy um tùm, cao quá đầu người. Vưà đặt bước chân đầu tiên từ thuyền xuống đảo, bàn chân tôi bỗng bị lún xuống. Quá bất ngờ, tôi loạng choạng muốn té. Đoán được trước, Javier đã nhanh nhẹn đưa tay đỡ lấy: Đừng sợ, sẽ còn nhiều điều bất ngờ chờ đợi anh tại quần đảo Uros này”.



Quần đảo nổi Uros có một không hai trên thế giới tại hồ Titicaca

IMG_1951.jpg




Quần đảo Uros kì lạ (khoảng 43 đảo) có một không hai trên thế giới này được hình thành từ những lớp totora (lau sậy) chết đóng thành từng mảng dày. Sau đó, người dân phủ xen kẽ những lớp lau sậy mới lên cho đến khi chiều dày đạt 1-2m rồi dựng nhà sinh sống trên đó. Vì thế, cả hòn đảo như một cái bè nổi khổng lồ bằng lau sậy, bước chân đi cứ xốp xốp, nhún nhún như đi trên nệm bông. “Thế đảo có trôi không?” câu hỏi quyết định thắng thua với Javier đã đến. Ông trưởng đảo Marcos khẳng định: “ Có chứ, những ngày gió mạnh, thổi bứt dây chằng, sáng sớm mở mắt tỉnh dậy thấy mình ở Bolivia. Vì thế, người Uro chúng tôi phải cột đảo thật chắc vào một tảng đá lớn để cố định vị trí”.



Nhà thờ trên đảo nổi

IMG_1795.jpg




Trưởng đảo Marcos dẫn tôi vòng quanh giang sơn của ông. Nói là đảo cho oai, thực ra nó nhỏ như cái cù lao, bề dài mỗi chiều không quá 300m. Mỗi đảo khoảng trên dươí 10 hộ sinh sống chủ yếu là tự cung, tự cấp: đánh cá trên hồ. Với tay bẻ một cây sậy non mọc sát mép nước, Macros bỏ vào miệng ăn ngon lành rồi đưa tôi thử: “ Ăn thử món ăn truyền thống của người Uro xem nào.” Món lõi sậy non của người Uro giòn giòn, nhạt nhạt, chẳng ngon tí nào nhưng công dụng của nó làm tôi ngạc nhiên: lều ở, thuyền đánh cá trên hồ đều làm cây sậy; sậy khô làm chất đốt, rễ sậy còn là vị thuốc khá hữu hiệu để chữa đau bụng, đau răng… Đang nói chuyện với tôi, bỗng nghe có tiếng kèn đâu đó vẳng lên, Marcos lấy cái vỏ ốc trong người ra, trèo lên cái chòi canh cao ngệu trên đảo rồi thổi lên mấy tiếng đáp trả. “ Chút nữa có người ở đảo bên cạnh đến hỏi vợ cho con trai họ. Bữa trước, họ đã mang lễ vật (thường chỉ là bánh mì, và một số thực phẩm) và ra mắt chào hỏi. Hôm nay, là lần cuối, họ sẽ mang rượu và lá coca qua, rắc xung quanh lều đôi vợ chồng mới như một lời tạ ơn gởi đến Đất mẹ. Đêm nay chắc sẽ vui lắm, lại uống mừng đến sáng rồi”…



Trên đảo nổi, bếp phải kê trên những tảng đá, sau khi sử dụng xong, phải đổ nước dập tắt để đề phòng cháy

43.jpg




Cá đánh bắt từ hồ Titicaca là nguồn thức ăn chính của cư dân quần đảo nổi

42.jpg




Vẫn còn giữ những nét văn hoá đặc trưng, nhưng người dân đảo nổi Uros cũng không kém văn minh. Lênh đênh trên mặt hồ nhưng người Uros cũng có trường học, nhà thờ (dĩ nhiên, đều được dựng bằng cây sậy) , có điện sử dụng từ pin năng lượng mặt trời. Chưa kể, họ làm du lịch cũng khá bài bản: bán những món đồ lưu niệm làm từ cây sậy, đặc trưng của vùng; làm hẳn mô hình thu nhỏ của đảo để giải thích cặn kẽ cho du khách; Chỉ cần bỏ khoảng 10 đô la, khách sẽ được sống cùng dân bản xứ một ngày, cùng ăn, ở, tối khuya cùng đi câu cá… Bây giờ tôi mới ngớ người ra, công nhận chiêu “khích tướng” rồi dụ khách đi theo tour của Javier thật cao thủ. Cả tôi và mấy người khách nước ngoài đều bị “xỏ mũi” một cách ngọt ngào. Nhưng dù sao, được đặt chân đến quần đảo lạ lùng nhất thế giới này cũng là kỉ niệm khó quên.



Nhà bằng lau sậy nhưng cũng xài pin năng lượng mặt trờ

40.jpg




"Dãy nhà trọ" cho khách du lịch nghỉ qua đêm, tối có thể cùng đi câu với dân trên đảo

56.jpg




Đồ lưu niệm làm từ lau sậy

58.jpg




Kiếp nghèo trên đảo Amataní

Thời hoàng kim của đế chế Inca chấm dứt khi người Tây Ban Nha xâm lược Peru vào giữa thế kỉ 16. Một số người Inca lui về nơi họ sinh ra, hồ Titicaca- nơi phát nguồn của đế chế Inca hùng mạnh, một trong những cái nôi của nền văn minh Nam Mỹ-, ẩn tích trên hai hòn đảo Amataní và Taquilé, gần như đoạn tuyệt hẳn với thế giới bên ngoài. Vì thế, dù chỉ cách thị trấn hiện đại Puno hơn hai tiếng tàu thủy, nhưng cuộc sống trên đảo Amataní vẫn như thể một trăm năm trước. Mặc dù tiếng Tây Ban Nha đã trở thành quốc ngữ tại Peru, nhưng người dân ở đây vẫn sử dụng tiếng Quechua, ngôn ngữ cổ thời Inca. Đàn ông vẫn còng lưng trên những mẫu ruộng bậc thang trồng khoai tây, luá mì để có miếng ăn. Phụ nữ vẫn cặm cụi xe sợi, đan len để có cái mặc. Họ vẫn sống cuộc sống tự cung tự cấp như cha ông mình cách đây hàng trăm năm (có chăng là thêm chút tiền còm từ những khách du lịch đến đảo ngủ lại). Không gian ở đây yên tĩnh lạ lùng. Không xe hơi, không nước nóng, không điện thoại chỉ có những đàn cừu, alpaca thong thả gặm cỏ… Những ồn ào, tiện nghi hiện đại của cuộc sống hối hả bên ngoài dường như bị nước hồ Tititcaca làm đóng băng lại cả. Amataní không có khách sạn. Du khách đến sẽ ở chung với gia đình dân địa phương. Tôi và anh hướng dẫn viên ở chung nhà với Vanessa, cô gái 19 tuổi, cùng với người mẹ. Khi tôi đến, Vanessa và mẹ hãy còn trên rẫy, hàng xóm phải chạy lên kêu về.



Cư dân đảo Amatani

54.jpg




Phòng tôi ở có nệm 3 lớp (cũng làm từ cây sậy như quần đảo nổi Uros) , có điện (dù chỉ là một bóng lù mù chạy bằng máy phát điện cổ lỗ sĩ). Phòng của Vanessa và mẹ chỉ có một cây đèn cầy lờ mờ. Nhà vệ sinh cũng có hai cái riêng biệt. Cái cho dân làng chỉ là 1 cái hố. Cái cho khách du lịch có hẳn bồn cầu. Một ngày đi bộ rả cả người nên lu nước lớn để sẵn trong phòng tắm chỉ một loáng là cạn. Vanessa và mẹ lẳng lặng xuống núi, một hồi lâu thấy khệ nệ khiêng thùng nước lên. Nước ngọt ở đảo phải hứng từng thùng từ dưới chân núi mang lên. Mẹ Vanessa cho biết: “ muốn khách du lịch đến ở, mỗi gia đình chúng tôi phải đạt được một số tiêu chuẩn nhất định về vệ sinh, điều kiện sinh hoạt. Điều đó quá xa vời với điều kiện hiện tại của chúng tôi. Vì thế, chúng tôi phải vay mượn rồi trả từ từ”



Món ăn thường ngày từ khoai tây các loại (Peru là "quê hương" của khoai tây với vài ngàn loại khoai tây khác nhau)

monantruyenthongcuanguoiQuechuatren.jpg




Buổi tối, làng tổ chức đêm văn nghệ, nhảy múa cho khách, chủ nhà cũng phải bận đồ đẹp để cùng vui. Ban nhạc là những bạn trẻ, già nhất có lẽ cũng chưa đến 18 tuổi. ban ngày làm nương, đi học (ngay tại đảo), ban đêm trông chờ vào những đồng tiền tip từ khách du lịch. Cesar, nhạc công 14 tuổi, khoe: “ Muà này là muà du lịch nên khách đến nhiều. Tuần trước, chơi nhạc 4 lần. Tiền tip mỗi đưá được 20 sol (khoảng 7 đô la)”. Khách nhảy nhót vui vẻ, mua bia uống, mời cả dân trong làng. Họ uống hết một cách nhanh chóng vì như thế có nghĩa là họ lại bán thêm được 1 chai nước. Thấy tôi ngôì một mình, Vanessa tới mời nhảy. Tôi lắc đầu, mặt cô buồn hẳn: “chúng tôi phải làm tất cả để khách vui, vì đó là nguồn thu nhập lớn của gia đình”. Cô cho biết: Mẹ Vanessa cũng mặc đồ đẹp mời mọi người nhảy múa. Chân vẫn nhảy, miệng vẫn cười nhưng sao họ vẫn không giấu được nỗi buồn trong khoé mắt. Vanessa thổ lộ: “ba tôi mới mất cách đây mấy ngày”…



Đảo Amataní hãy còn sót lại những di tích từ thời Inca trên hai đỉnh núi mặt trăng và mặt trời, nơi mà du khách nào đến cũng cố trèo lên để cầu xin sự sung túc cho bản thân và gia đình. Vanessa nói hai đỉnh núi đấy thiêng lắm, nhưng tôi không tin. Vì nếu thiêng thì mỗi khi khách du lịch đến bà mẹ già của cô đâu phải cặm cụi leo lên theo chỉ với hi vọng bán được chút đồ thổ cẩm tự dệt của mình…



Mẹ con Vanessa bán đồ thổ cẩm trên đỉnh mặt trời

IMG_2003.jpg
 
Bí mật ở sa mạc Nazca Chỉ là một sa mạc nhỏ bé, khô cằn nằm ven biển Peru, Nazca có lẽ sẽ chẳng mấy ai biết đến nếu không có một ngày năm 1920, những hành khách trên máy bay chợt phát hiện hàng trăm hình vẽ khổng lồ trên sa mạc Nazca trải rộng 500km2 (bằng 3/4 diện tích nước Singapore). Các nhà khoa học đổ về, họ không chỉ bất ngờ khi những hình vẽ khổng lồ đó đã có hơn 2000 năm tuổi mà còn sửng sốt với những phát hiện mới từ những xác ướp của người Peru cổ được khai quật tại đây. Dưới lớp cát sa mạc Nazca, từng bí mật từ từ được hé mở…



Lịch thiên văn hay sân bay của người ngoài vũ trụ?

Đi trong muà cao điểm chuyện gì cũng có thể xảy ra. Vé máy bay đi xem những đường vẽ kì lạ tại sa mạc Nazca tăng giá tính bằng từng phút. Trước đó, tại Cuzco, Lima giá vé đặt trước được báo 60 usd, còn đang chần chừ lưỡng lự vì giá cao quá ( giá bình thường chỉ khoảng 40 usd), ngày hôm sau, giá đã là 80 usd. Buổi chiều cùng ngày, quay về khách sạn lấy tiền chaỵ ra, giá đã lên 95 usd.



Ghét mấy thằng đại lí “làm giá”, tôi quyết định mua vé trực tiếp tại Nazca. Chuyến xe bus 14 tiếng chạy thâu đêm từ Cuzco đến Nazca lúc 6h30 sáng. Vội vã bắt xe taxi chạy đến phi trường thì đã thấy xếp hàng đông nghẹt. Phòng chờ kiêm bán vé taị phi trường sân bay Nazca nhỏ xíu như quán càphê ở Sàigòn đông người, chật chội đến không ngờ. “Mấy ngày nay sương mù nhiều quá, không cất cánh được, có người đã chờ đã 3,4 ngày vẫn chưa bay được. Vé 110 usd. Đồng ý, tôi sẽ để anh vào danh sách chờ…” cô tiếp viên lạnh lùng trả lời. Vừa may, một khách du lịch Pháp nhường vé nên tôi được leo lên chuyến bay cuối cùng trong ngày. Cầm chiếc vé với giá 120 usd trong tay (mắc gấn 3 lần giá bình thường) tôi thở phào tự an ủi dù sao mình cũng còn may mắn hơn nhiều người chờ đợi đến 3,4 ngày trời vẫn chưa bay được.



Máy bay chở khách xem hình vẽ trên sa mạc

68.jpg




Chiếc máy bay nhỏ chở 5 người khục khặc khục khặc cuối cùng rồi cũng cất cánh. Gió giật ầm ầm, tiếng động cơ muốn điếc lỗ tai, chợt nhớ đến lời lí do nhường vé của người bạn Pháp: “ Tháng 12 năm ngoái, 2 chiếc máy bay đã phải hạ cánh khẩn cấp vì trục trặc động cơ. Tháng 4 năm nay, một chiếc máy bay mang 5 người khách Pháp cùng phi công đã tử nạn.” Lúc đó do quá “say đòn” nên cười xoà: “sống chết có số, sợ gì”, bây giờ ngồi trên chiếc máy bay nhỏ xiú lắc đùng đùng này, bất giác tôi rùng mình. Nhưng nỗi sợ chợt qua mau khi thấp thoáng giữa sa mạc mênh mông, những đường vẽ hình con khỉ có đuôi xoắn ốc, người ngoài hành tinh, nhện, cá voi… hiện ra sống động lạ thường. Sa mạc bây giờ như một bức tranh khổng lồ. (May mắn Nazca là một trong những sa mạc khô nhất thế giới cộng với bề mặt đầy đá sỏi trên sa mạc đã làm giảm thiểu ảnh hưởng của gió nên những hình vẽ có từ hơn 2000 năm trước này mới tồn tại được đến ngày nay).



Hình con nhện

67.jpg




Thật ra, những hình vẽ khồng lồ như thế không phải chỉ có ở Peru, mà còn có ở Hi Lạp, Mỹ… nhưng đặc điểm, số lượng và kích thước của những hình vẽ tại sa mạc Nazca gây ấn tượng mạnh nhất. Theo nhà nữ toán học người Đức Maria-Reiche, người dành trọn cả đời nghiên cứu những hình vẽ kì lạ trên sa mạc Nazca, cho rằng đấy chính là lịch thiên văn của người xưa. Dựa vào sự dịch chuyển của các chòm sao, thổ dân lúc bấy giờ sẽ dự đoán thời tiết, phục vụ cho việc trồng trọt của họ. (Hình con nhện khổng lồ chính là sự liên tưởng đến tinh vân của chòm sao Orion). Tuy nhiên, theo truyền thuyết, sa mạc Nazca chính là sân bay của người ngoài hành tinh, khi rất nhiều phi thuyền vũ trụ đã cất, hạ cánh tại đây. Và chính những người thổ dân địa phương (từ năm 200 TCN đến năm 600) đã vẽ lại những hình ảnh họ chứng kiến. Trên sườn núi gần đó, có hình vẽ một người khổng lồ có cái đầu kì lạ đang giơ tay chào càng làm cho truyền thuyết này đáng tin cậy hơn. Tạp chí National Geographic đã giải thích: “ Lớp sỏi, đá trên bề mặt của sa mạc Nazca có chưá Fe0, qua hàng thế kỉ, nó trở nên đen bóng. Khi lớp sỏi được quét đi, nó tương phản vơí màu bên dưới. Bằng cách này, những đường vẽ khổng lồ được hình thành bởi những đường rãnh rộng khoảng 20cm đào sâu khoảng 35 cm trên sa mạc.” Cách tạo ra những đường vẽ này quá đơn giản, ai cũng có thể làm được, nhưng làm sao để tạo được những đường thẳng gần như tuyệt đối, làm sao để “phóng to” những hình vẽ (vốn chỉ có thể quan sát được hoàn chỉnh từ trên không) theo đúng tỉ lệ một cách chính xác? Ai đã tạo ra, và nó có ý nghĩa gì thì đến nay, đó vẫn là một trong những bí mật lớn nhất của loài người.



Xác ướp lên tiếng

Cũng trên sa mạc Nazca, cách thị trấn khoảng 30 km, Chauchila là nghĩa trang của người tiền Inca mà phát hiện qua những xác ướp, xương sọ, đồ gốm hơn 1500 tuổi tại đây đã làm các nhà khoa học ngỡ ngàng và kinh ngạc về nền văn minh của người Inca và tiền Inca.



Thật bất ngờ, Chauchila lại được phát hiện bởi …những tay “mộ tặc”. Đến khi nhà nước có biện pháp ngăn chặn thì một số lượng khổng lồ những hiện vật qúi giá đã bị đem bán. Tuy vậy, Chauchila hãy còn khá ấn tượng bởi hơn 10 hầm mộ mở cho khách tham quan với nhiều xác ướp hãy còn lọn tóc dài quấn quanh, có cả xác ướp của trẻ em được dùng để tế thần… Ông Juan Tohalino Vera, một trong những hướng dẫn viên kì cựu nhất Nazca, người có thể nói thông thạo 4,5 thứ tiếng, cuối xuống, dùng tay khoả lớp cát ngay dưới chân rồi nhặt lên một mảnh xương nhỏ: “ Cũng may, những kẻ cướp huyệt mộ chỉ quan tâm đến vàng nên xác ướp, xương sọ chúng không thèm mang đi, vất vương vãi khắp nơi”… Tôi không tin nên bắt chước làm theo, và cũng nhặt được một mẩu xương như thế.



Tóc dài thế này làm sao tắm nhỉ?

69.jpg




Gục trên...đầu gối bỏ quên đời (nhại bác Quang Dũng tí, hihi)

75.jpg




Ngày nay, khi y học đã tiến bộ vượt bậc, thì giải phẫu não hãy còn được liệt vào những ca khó. Vậy mà, cách đây hơn 500 năm, từ những xác ướp, xương sọ này người ta đã phát hiện rằng người Inca đã có hiểu biết khá chi tiết về giải phẫu học và đã biết… giải phẫu não. Theo nghiên cưú mới nhất đăng trên tạp chí National Geographic thì chỉ với lá coca và một số loại dược thảo tự nhiên làm thuốc tê, người Inca đã đục hộp sọ của những chiến binh bị thương ở đầu để chữa và tỉ lệ sống sót sau những ca phẫu thuật ghê rợn này có lúc lên đến 90%.



Đục hộp sọ để chữa thương (riêng hình này của National Geographic, không phải của tui)

skull.jpg




Ra về, ngay trước nghĩa địa Chauchila, tôi giật thót mình khi thấy người ta bày bán nhiều cây sáo được làm từ những khúc xương chạm khắc khá công phu. “Xương người?” tôi rụt rè hỏi. Juan cười lớn: “ Vua Inca ngày xưa, dùng đầu lâu của thủ lãnh đối phương làm chén đựng rượu, lấy xương chạm khắc, đục thành những ống sáo để “dằn mặt” kẻ thù. Nhưng cậu đừng sợ, những cây sáo này chỉ làm từ xương con llama, và alpaca (một loại lạc đà không bướu) thôi mà”… Hết hồn!



Kẻ thù của người Inca sẽ bị đục lỗ, xỏ xâu như vầy nè

74.jpg




Địa vị xã hội của người Inca được phân biệt qua hình dáng…hộp sọ. Địa vị càng cao thì chỏm sọ phải được nắn càng dài. Và Người Inca nắn hộp sọ ngay từ khi mới sinh bằng cách cố định đầu trẻ vào một cái khung (độn bông bên trong). Theo năm tháng, họ từ từ thay đổi kích thước và hình dạng khung để nắn đầu theo ý muốn.

72.jpg
 
Bùa chú và những tập tục rùng rợn Muốn cửa hàng đông khách: buộc cánh tay trẻ sơ sinh vào bó hoa Ruda rồi vẩy nước trước cưả, trong nhà ăn; Mệt mỏi không biết nguyên nhân: “ bác sĩ cuy” (một loài họ chuột) sẽ “hút” hết những bệnh tật; Cúng trả nợ đất: bào thai trẻ sơ sinh là lễ vật trang trọng nhất… Những tập tục từ ngàn xưa của người Peru này hãy còn giữ cho đến ngày nay, những ngày của thế kỉ 21.



Buà chú

Tối hôm trước ngủ sớm nhưng sáng dậy người cứ ngầy ngật. Triệu chứng độ cao quen thuộc ngày nào đi Tây Tạng lại tái phát: cả đêm cứ chập chờn, đầu đau như có ai dung gọng kìm kẹp sát đầu, buồn nôn nhưng không thể… Tuýp kem đánh răng mang theo xì cả ra ngoài do áp suất thấp. Cũng phải thôi, Juliaca, một tỉnh miền núi của Peru cách thủ đô Lima hơn 1000 km, nằm ở độ cao 3825m so với mực nước biển, (xấp xỉ Tây Tạng).



Tôi ghé thăm chị Dao, du học sinh tại Nga, theo chồng định cư hẳn tại Juliaca đã 10 năm, Tôi đến cũng vưà thấy trước cưả tiệm ăn của chị Dao đầy muối trắng. Chị cuống quit quét dọn sạch đống muối với vẻ mặt lo lắng sau đó vào nhà lấy lọ đường lớn ra rắc trước cưả. Thấy vẻ mặt ngơ ngác của tôi, chị giải thích: “ Chị bị đối thủ cạnh tranh “ếm buà”. Họ đổ muối trước tiệm ăn để “trù” đồ ăn mình nấu luôn bị mặn, thực khách sẽ không muốn vào ăn nữa. Chị phải rắc đường để “khử” buà muối đấy”. Trong khi ngồi đợi chị Dao lau nhà thì một bà khách bước vào, do trơn, bỗng bị trượt chân té. Thế là bà ta nằng nặc yêu cầu chị Dao phải hốt đất ngay tại chỗ bị té để bà mang về nhà nhờ thầy cúng niệm chú và chôn đi. Làm như vậy, sau này bà mới không bị bệnh tật.Khổ nỗi, sàn nhà chị Dao là gạch bông, lại mới lau, đất làm gì có, vậy mà bà ta cứ quét đi quét lại, cố gắng để lượm được chút xiú bụi đất, gói trong miếng giấy rồi mang về.



Người Peru, đặc biệt là các tỉnh miền núi, rất tin vào tâm linh nên họ cũng sử dụng rất nhiều loại buà. Trước cưả tiệm ăn, buôn bán, nêú để ý bạn sẽ có thể thấy ngay hai móng sắt của hai con ngựa: một đực, một cái. Một cái hướng ra, một cái hướng vào. Họ hi vọng sẽ có nhiều khách dẫm vào cưả hàng mình nhiều hơn. (Cửa hàng chị Dao cũng có hai cái móng ngựa sắt này). Có buà “ếm” cũng có buà “khử” vì thế trước cưả nhà họ thường treo tỏi đực để khử buà yếm của người xấu. Ông Hugo Apaza Quispe, giáo sư sử học của thành phố Puno, cho biết: “ Để tự “bảo vệ” bản thân, dân Peru miền núi thường có buà đựng trong một lọ nhỏ, luôn mang theo bên mình. Lọ buà đó gồm hạt Cuti màu đỏ có chấm đen để tránh những ghen tị, hiềm khích; cây Murachi được khắc thành hình một đôi vợ chồng có tác dụng bảo vệ hạnh phúc gia đình; một miếng nam châm để hút những “kim loại” như tiền, đồng, vàng, bạc vào gia đình. Cạnh đó, còn có bảy loại gỗ khác nhau để tránh bảy loại điềm gở thí dụ: bệnh tật, sa sút trong làm ăn…”



Bùa "hộ vệ"

84.jpg




Bác sĩ “cuy” và cánh tay trẻ sơ sinh

Khi người Peru mệt mỏi mà không biết nguyên nhân, đi bác sĩ cũng tìm không ra. Họ thường tìm con “cuy” (một loài họ chuột) màu đen tuyền để chữa bệnh. Vào thứ ba và thứ sáu hàng tuần (đối với người Peru, đó là những ngày “phù thuỷ”, mọi chuyện liên quan đến tâm linh phải thực hiện vaò ngày này mới linh nghiệm), họ cầm con chuột sống xoa khắp người bệnh nhân để con này “hút” hết những bệnh tật của họ ra. Sau đó, họ chặt phăng đầu, thấy máu đen sì tức là độc đã vào máu con cuy mà ra khỏi bệnh nhân. Điều này chính bà Karin Muller- người đi dọc dãy nuí Andes qua các nước Chile, Ecuador, Brazil, Peru- cũng môt tả cách chữa bệnh bằng con cuy trong quyển sách nổi tiếng Along the Inca road: “ông thầy lang cầm con cuy đập vào lưng và đầu của bà ấy, rồi sau đó chẩn bệnh dựa trên chất lượng của bộ ruột của nó”



Ngoài ra, "cuy" còn là món ăn truyền thống của người Peru. Người ta nuôi trong nhà như nuôi con gà, con vịt. (Chỉ có con cuy đen tuyền mới dùng để chữa bệnh).

cuy.jpg






Rùng mình hơn, người Peru miền núi có niềm tin rằng cánh tay của trẻ sơ sinh có tác dụng mời gọi khách hàng. Vì thế, tại rất nhiều cưả hàng ăn, họ luôn bí mật buộc cánh tay của trẻ sơ sinh vào bó hoa Ruda (một họ hoa cải). Vưà mở cưả hàng, bao giờ họ cũng quét dọn sạch sẽ, và rẩy nước hoa Ruda trước cưả, trong nhà bếp, khắp nơi trong nhà ăn… để hi vọng một ngày đắt khách. Những cánh tay trẻ sơ sinh thường được mua chui từ bác sĩ hoặc các phòng nạo thai với giá khoảng 100 usd/cái. Dù điều này họ luôn giữ bí mật nhưng dân buôn bán không ai không bỉết. Tôi hỏi nhỏ chị Dao: “ Hỏi thiệt, chị có cánh tay trẻ sơ sinh nào không?” Chị nhăn mặt: “ Mình thấy dã man quá nên không sử dụng”. Cách đây không lâu, báo chí đăng tin rầm rầm về vụ có một chiếc xích lô tông vào một xe bán nước Chicha (một loại nước giải khát lên men từ ngô, hoặc từ hạt Kinoa). Thùng nước vỡ toang, và lòi ra một bàn tay trẻ sơ sinh…



Bùa đủ kiểu

96.jpg




Trả nợ đất mẹ

Tiệm ăn của chị Dao khá đông khách, nên tôi ngồi luôn ở quán nói chuyện với chị cho tiện công việc. Cái sàn nhà mới lau sạch bóng hồi nãy chỉ vài tiếng đồng hồ đã vương đầy thức ăn, nước. Thoạt đầu tôi cứ nghĩ có lẽ tiệm ăn gần chợ, khách chủ yếu là người lao động chân tay nên hơi…”dơ”. Tuy nhiên, có điều lạ là từ bà già bím tóc bận bộ đồ truyền thống cho đến ông khách vận complet, xách cặp samsonite trước khi ăn, uống đều rải xuống đất một ít Tôi thắc mắc với chị Dao: “ Sao chị không để dưới bàn cái thau để họ đổ thức ăn vào đấy”. Chị Dao cười lớn: “ Bậy! Tập quán của người Peru đấy. Họ quan niệm rằng họ sinh ra, lớn lên, rồi chết cũng từ đât mẹ. Vì thế, rải thức ăn xuống đất trước bữa ăn là để cảm ơn đất mẹ”. Người Peru có lễ trả nợ đất mẹ (Paga Santa tiera pachamama) vào tháng 8 hằng năm, vì thời gian này, người ta cho rằng thời gian này, đất mẹ “đói”, luôn muốn “ăn” lễ vật nhất. Ngày xưa, người Peru thường trả nợ đất bằng các loại gia súc thân thiết trong cuộc sống hàng ngằy như alpaca, llama (một loài thuộc họ lạc đà)… Ngày nay, điều đó được “giản tiện” hơn là chỉ cần cúng trả nợ đất bẳng bào thai của các con đấy. (được bán nhan nhản ngoài chợ).



Bào thai con llama, alpaca bán đầy rẫy ở chợ Peru (nhất là các vùng miền núi)

market2.jpg






IMG_0953.jpg




Đất mẹ đối với người Peru cực kì thiêng liêng nên lễ trả nợ đất luôn là những phẩm vật, món ăn ngon nhất. Và một số người Peru (nhất là đối với dân đào vàng) tin rằng, bào thai trẻ sơ sinh chính là món ăn ngon nhất. Vì thế, họ trả nợ đất cũng bằng bào thai trẻ sơ sinh, hoặc thậm chí cả trẻ con nhất là con trai. Giết để tế sống đất mẹ. Trẻ con ở đây quá đông. Đẻ ra rất nhiều, nhưng không có khả năng nuôi, nên chuyện xin trẻ con, hoặc bỏ số tiền nhỏ là có thể mua được. Dĩ nhiên, những điều này là phạm pháp, nhưng tại những vùng núi hẻo lánh, xa xôi thì chính phủ không thể kiểm soát được. José, một người dân vùng Saman (huyện lị của Puno) cho biết làng anh ta có tục lệ trả nợ đất bằng người sống. Một lần, chính José đã chứng kiến người dân trong làng trả nợ đất bằng cách đẩy một người vào một cái hố lớn đầy củi, than để thiêu sống”



Đối với một số người Peru ở miền núi, văn minh, luật pháp hãy còn quá xa xôi. Chị Dao cho biết: “Cách đây không lâu, báo chí, tivi ở đây đăng tin một người chỉ ăn cắp một bình gas, mà người dân một huyện của Puno đã đổ xăng thiêu sống anh ta. Khi đi cấp cứu thì anh ta đã chết bì bỏng quá nặng. Chưa hết, khoảng năm 2002, tivi truyền hình quay trực tiếp hình ảnh thị trưởng của thị xã Ilave (thuộc Puno) đã bị nhân dân bắt đi vòng quanh thành phố, vừa đi bị đánh, ném đá cho đến chết”…





Bùa móng ngựa đực và cái thường được đặt ngay cửa ra vào nhà hàng để cầu mong "nhiều người bước chân vào" (đắt khách)

28072008330.jpg






Nhặt được (không phải mua) một chiếc giày trẻ em (chỉ một chiếc, không phải đôi) sẽ mang đến sự may mắn vô cùng. Chịu khó để ý bạn sẽ thấy những chiếc giày như thế được treo rất phổ biến ở Peru

95.jpg
 
Inti Raymi: Lễ hội thần mặt trời Đây là lễ hội truyền thống lớn nhất của người Peru diễn ra vào ngày 24-6 hằng năm. Xuất hiện từ thế kỉ 16, khi Inca còn là một trong những đế chế hùng mạnh nhất Nam Mỹ, Inti Raymi là lễ hội tôn vinh thần mặt trời-vị thần tối cao của người Inca. Họ cầu nguyện cho mùa màng bội thu, cầu nguyện cho sự ấm no, sung túc. Tổ chức chính thức vào ngày 24-6, nhưng từ trước cả tuần lễ, khắp các đường phố tại Cuzco (kinh đô của người Inca xưa) đã nhộn nhịp, đông vui như hội.





Ngô (bắp)- món ăn truyền thống phổ biến của người Peru- cũng là phẩm vật dâng lên thần mặt trời

2a-2.jpg






Inca- đứa con của thần mặt trời-người đứng đầu, lãnh đạo đế chế.

3-1.jpg






Ướp xác- một tập tục của người Inca (thường dành cho giới quí tộc). Họ tin rằng, khi ướp xác họ sẽ được tái sinh vào một thế giới khác.

4a.jpg






Aclla, những phụ nữ đồng trinh, suốt đời phụng sự tại các đền đài, lăng mộ.

5b.jpg






Quipu, những nút thắt bí ẩn vẫn chưa được thế giới giải mã, được coi là "chữ viết" của người Inca xưa. Người Inca không có chữ viết, họ nói tiếng Quechua (ngày nay vẫn được sử dụng phổ biến tại Peru sau tiếng Tây Ban Nha)

6-1.jpg






Chàng nông dân với dụng cụ làm nông truyền thống từ thời Inca (ngày nay vẫn còn sử dụng phổ biến)

7-1.jpg






Pháp sư với cây tumi trong tay. Đây là một loại dao thường dùng để mổ não (sọ) bệnh nhân để chữa bệnh

8-1.jpg
 
Tình Việt Người theo chồng về dinh, kẻ lang bạt đi tha phương kiếm sống mà cùng dạt về đất nước Peru xa xôi bên kia bờ Thái Bình Dương. Giữa 30 triệu người Peru, chỉ có 4 trái tim Việt. Họ chọn Peru làm nhà, nhưng trái tim vẫn luôn hướng về quê hương…



Nước mắt nơi xứ lạ

Bí thư thứ 1 đại sứ quán Việt Nam tại Chile, Nguyễn Đại Bản đưa tôi địa chỉ của Văn với lời nhắn: “ Văn đi làm về trễ lắm, muốn gặp nó thì đến nhà sau 10h tối.” Taxi cầm địa chỉ, phải hỏi đến mấy lần mới tìm được phòng trọ của Văn. Mãi đến hơn 12h khuya, Văn mới về đến nhà, mặt phờ phạc hẳn: “ Hôm nay khách đông quá! Làm cả ngày mà không kịp ngơi tay để ăn”. Văn hiện là đầu bếp của một nhà hàng Tàu, làm việc từ 11h30 trưa cho đến 12h khuya. Đều đặn như thế, 7 ngày/tuần, 30 ngày/tháng.



Peru đang mùa đông (vì nằm ở Nam bán cầu), đứng ngoài đường đã lạnh co ro, vào nhà Văn còn…lạnh hơn vì không có máy điều hòa, cô vợ người Peru và con gái mặc áo lạnh sù sụ. Văn ôm con gái vào lòng: “ Con em tên Dung Minh, anh có thấy nó giống người Việt Nam không?” , rồi không đợi tôi trả lời, Văn tự nói với vẻ sung sướng, đầu tự hào: “ Cha nó là người Việt Nam thì con nó cũng phải là người Việt Nam chứ”. Gặp đồng hương, bao nhiêu tâm sự về nỗi nhọc nhằn mưu sinh nơi xứ lạ được dịp trào ra…



Cùng cô vợ Peru và bé gái Dung Minh

IMG_5856.jpg




Quê ở huyện Cầm Xuyên (Hà Tĩnh), bố đi đánh cá không đủ ăn, nghe lời rủ rê, cả nhà chạy vạy vay 3000 đô nộp cho công ty môi giới xuất khẩu lao động để làm việc cho một tàu đánh cá Đài Loan. Quần quật làm việc trên biển mười mấy tiếng một ngày, cả năm trời không đặt chân xuống đất liền, mà lương chỉ hơn 200 usd/tháng. Đến khi tàu ghé Peru, do chịu không nổi, Văn trốn lại. Chỉ có mấy bộ đồ và vài trăm đô trong túi, không biết 1 tí tiếng Tây Ban Nha, lại ở lậu, Văn sống chui nhủi, lê la khắp nơi để xin việc, thậm chí cả đánh nhau đến đi bệnh viện vì tranh giành một chỗ làm...



Cũng may, khi đồng tiền cuối cùng tiêu hết, Văn được nhận vào rưả chén cho một nhà hàng Tàu. Một ngày làm mười mấy tiếng, tối xếp ghế, ngủ ngay tại nhà hàng, chỉ được nuôi cơm, không lương. Vưà làm, Văn vưà học lóm nghề nấu bếp, bên cạnh việc tự học tiếng HOa, tiếng Tây Ban Nha. Sau 5 năm ở Peru, Văn đã trở thành bếp chính một nhà hàng Tàu, nói thông thạo cả 2 tiếng Hoa và Tây Ban Nha. Tuy thế, thu nhập của anh cũng chỉ vưà đủ chi tiêu cho gia đình nhỏ cùng vợ và con gái. Chưa kể, Lima khá nguy hiểm, ở Peru 5 năm mà anh đã bị kê súng vào đầu trấn hết tiền bạc, điện thoại không dưới… 4 lần.



Nói về gia đình Văn rơm rớm nước mắt: “ 5 năm xa Việt Nam, đám cưới chỉ có mấy bác bên đại sứ quán thay mặt bố mẹ. Bây giờ, chỉ mong gởi con bé Dung Minh về Việt Nam cho nó học, hai vợ chồng ráng cày kiếm chút vốn rồi về sau. Nhưng vé máy bay từ Peru về Việt Nam cũng hơn 2500 đô, chẳng biết đào đâu ra cho đủ”. Tháng 3 vừa rồi, Văn có gởi về Việt Nam cho bố 150 đô. Ông bố già vẫn còn đánh cá thuê, lên xe đò, chạy suốt đêm từ Hà Tĩnh ra Hà Nội rồi sáng hôm sau lại quay quả trở về sớm. Cầm 150 usd Văn gởi trong tay, ông hỏi nhỏ chị Dao (người mang tiền về giùm): “ Cô đổi ra tiền Việt giùm, để tôi đi xe đò về”. Món nợ mượn để đi xuất khẩu lao động giờ vẫn chưa trả hết…



Văn đang nấu ăn tại nhà hàng người Hoa

9a.jpg




Tình đồng hương

Bốn người ở Việt Nam, chị Dao, chị Nhung, chị Hậu và Văn mỗi người ở một nơi, có chuyện gì cũng tíu tít, gọi điện thoại cho nhau. Còn nhớ ngày đầu đến Peru, gọi điện hỏi thăm chị Dao, chưa kịp giởi thiệu gì thì chị đã nói: “ Người Việt Nam mới sang phải không, Văn kể chị nghe hết rồi. Sắp xếp công việc rồi lên chị chơi nhé”.



Chị Dao là du học sinh tại Nga, cưới chồng người Peru, nên theo về ở. Hai vợ chồng hiện mở một tiệm ăn nho nhỏ tại Juliaca- một thành phố hẻo lánh cao 3800 m so với mực nước biển-. Khi tôi đến chơi, anh chồng người Peru nhất quyết mời đi uống bia. Nắp chai bia vưà bật, bọt trào ào ra ngoài, anh chồng mừng ra mặt nhanh tay hớt lấy lớp bọt và…bỏ vào túi, miệng không ngừng xuýt xoa: “ ô, tiền, tiền! may mắn quá”. Thì ra, đối với người Peru, bọt bia khi vưà khui chính là tiền, là sự may mắn. Khui bia bọt càng nhiều tức là càng may mắn, tình bạn càng thắm thiết. (Biết vậy tôi đã lén sục mấy chai bia đó vài lần trước khi anh chồng khui. Bảo đảm, tình bạn sẽ lênh láng). Rồi anh chồng chỉ vào cái nón lá và mấy bức tranh Đông hồ treo trên tường, nói giọng ngọng ngịu: “ Việt Nam đấy, đẹp không?”. Những ngày tại đây, chị Dao và chồng bỏ hết việc nhà hàng để dẫn tôi đi tham quan. Anh chồng là giảng viên đại học, chị Dao cũng từng giành bằng đỏ tại Nga nên kiến thức khá sâu rộng. Nhờ vậy, mà tôi có thể thâm nhập thật sâu vào cuộc sống người Peru.



Hạnh phúc bên cùng chồng tại Peru nhưng chị Dao vẫn không nguôi nỗi nhớ Việt Nam

9b.jpg




Thật ra, tôi biết chị Dao, Văn, chị Nhung cũng thông qua đại sứ quán Việt Nam tại Chile. Chỉ có thế, không bà con, bạn bè thân thuộc. Vậy mà suốt những ngày rong ruổi tại Peru, hơn lúc nào hết tôi mới thấm thiá hết hai chữ đồng hương. Chị Dao, Văn bỏ cả công việc để dẫn tôi đi mọi ngóc ngách để tìm hiểu thực tế. Thậm chí, chị Dao còn tháp tùng theo tôi qua tỉnh khác cách đó 400 cây số để gởi gắm tôi cho nhà gia đình chồng. Văn thì vài ngày lại hỏi han từ những điều nhỏ nhặt nhất: ăn, ngủ có được không, và thậm chí còn hỏi tôi có thiếu tiền không thì Văn cho mượn (dù Văn hãy còn trong hoàn cảnh “chạy gạo từng bưa”). Mấy anh bên đại sứ quán ở tận Chile nhưng vẫn email, gọi điện liên tục…Vì thế, làm sao tôi quên được vẻ mặt đầy nghi ngờ của dân balô tứ xứ: “ Mày nói dối, nếu không phải là bà con, bạn bè thân thiết làm sao có thể giúp nhau tận tình đến vậy?” Lúc đó, tôi đã trả lời không giấu vẻ tự hào: “ Ừ, người Việt Nam như thế đấy. Ở bất cứ nơi đâu cũng coi nhau như anh em một nhà.”



Theo thói quen, trước khi chia tay với một vùng đất mới, tôi lại tìm một góc thật yên tĩnh để hồi tưởng lại những kỉ niệm của chuyến đi. Cho đến giờ, đây là chuyến đi dài ngày nhất, gần hai tháng lang thang tại Peru thoáng qua như chớp mắt. Nhớ ngày sắp đi, Yony, cô bạn Peru xinh đẹp, đưa tôi 3 chiếc lá coca: “ Tặng anh một điều ước”. Tôi không thể mang “điều ước” này trở lại Mỹ. Đối với họ, lá coca (nguyên liệu tạo ra cocain) luôn là kẻ thù, họ không cần biết rằng đối với người Peru, đó là chiếc lá linh thiêng. Ừ, thì đành vậy. Tôi cầm ba chiếc lá trên tay, hướng về dãy Andes đầy mây mù đằng xa, tần ngần đưa lên miệng thổi nhẹ như cách cám ơn đất trời của người Peru rồi thả bay lẫn vào trong gió. Tôi không ước điều gì cả. Hai tháng vưà qua chẳng phải đã là món quà lớn mà Peru tặng tôi rồi sao?





Bà già Peru

IMG_1095.jpg




IMG_1041.jpg




Con nít Peru

IMG_1135.jpg




IMG_4197.jpg




Chuyện bên lề:

Sau những bài viết này, có những cảm xúc khó tả (đối với tôi):



Thứ 1: Không ngờ Anh Già (ông sồn sồn gãi đít sồn sột trong phượt) lại là bạn học cũ của chị Dao (người Việt ở Peru-nhân vật trong bài viết).



Thứ 2: Ở Peru không phải có 4 người Việt Nam (như tôi và đại sứ quán biết), mà là 5. Một chị người Việt cũng ở tại Peru (lâu nay không ai biết) sau khi đọc những bài viết đã bất ngờ bắt liên lạc. Ai cũng mừng. Vậy là thêm một trái tim Việt sưởi ấm tình đồng hương tại Peru xa xôi này.



Thứ 3: Tôi còn nợ Văn -người Việt ở Peru-(nhân vật trong bài) một lời hứa. Đó là đưa "quảng cáo" lên mạng giùm Văn rằng:

"Bất kì ai có nhu cầu du lịch tại Peru, muốn tìm người phiên dịch (Văn rành cả hai tiếng Tây Ban Nha và tiếng Hoa), muốn tìm hiểu cuộc sống thực tế của người Peru, hoặc cần chỗ trọ rẻ... hãy liên lạc với Văn". (Tiền công thỏa thuận).



Điện thoại liên lạc: 993 034 759 hoặc 997 750 994.

Email: tienvan_nguyen93@yahoo.es



Tôi rất kị quảng cáo, nhưng tôi thấy đây cũng là một thông tin tốt. Về cá nhân, Văn là người tình cảm, có nghĩa khí, không phải là dạng chụp giựt, "ma đầu". Sau này, bạn nào du lịch tại Peru, hãy liên lạc với Văn. Trước hết, sẽ có một thổ địa tốt, sau nữa, cũng là cách giúp, ủng hộ cho đồng hương.



Xin hết ạ! (Vỗ tay!!!)
 
Trong quán Chicha Thế kỉ 16, khi Tây ban nha xâm chiếm Peru làm thuộc điạ, họ đã ra sức đồng hoá người Peru bằng cách xây nhà thờ, truyền đạo, nói tiếng Tây ban nha… Vì vậy, văn hoá những nước Nam Mỹ (trừ Brazil là thuộc địa Bồ đào nha) bị ảnh hưởng rất nhiều. Ngày nay, có lẽ Quechua là tộc người Peru “thuần chủng” (tạm hiểu như thế) lớn nhất còn tồn tại ở Peru. Họ sống tập trung ở các tỉnh miền núi phía Nam như Cuzco, (nơi ngày xưa là kinh đô Inca- đế chế hùng mạnh nhất Nam Mỹ)…



Người Quechua ngày nay vẫn nói tiếng Quechua, họ vẫn giữ rất nhiều phong tục tập quán từ ngàn xưa để lại. Và cũng chính vì thế, sẽ rất khó tiếp cận gần được với người Quechua. Thật ra, ở Cuzco, chicha được bán đầy ở chợ, ngoài đường phố, trong tiệm ăn… Tuy nhiên, để vào quán chicha “thuần chủng” của người Quechua và chụp hình thì hầu như là điều không tưởng. Tôi có may mắn sống chung với một gia đình người Quechua trong một tháng trời (gia đình chồng của một chị người Việt Nam). Họ đã dẫn tôi đến một quán chicha “gốc” của người Quechua để chụp hình. Nhờ họ là người Quechua, nói tiếng Quechua, nên mới “bảo lãnh” cho tôi chụp hình được.





Chicha là thức uống lên men từ ngô hoặc trái kinoa (tui cũng chẳng rõ đó là trái gì). Vị của nó chua chua (hơi giống rượu cần của mình , nhưng đặc hơn và không ngọt). Với 3 soles (khoảng 1 đô), bạn có thể mua được đến 2, 3 lít. Uống khá ngon, đằm, dịu, nhưng cũng dễ (Hôì lần đầu tui uống, thấy “nhẹ” quá nên ngồi cưa với thằng bạn người Quechua, rồi xỉn hồi nào không biết



Quán tối quá, nên mấy hình này toàn phải chơi ISO 1600 không. (may mà cũng ít bị noise nhỉ)



1) Lối vào quán hẹp ré, 2 người đi là đụng vai. Chưa kể tối mò mò như vào nhà thổ (xin lỗi, tui đoán vậy, chứ tui “đạo đức sáng ngời” lắm, hí hí)

IMG_6850.jpg






2) Nụ cười hồn nhiên

IMG_6862.jpg






IMG_6878.jpg






4) Quán nghèo, dây điện chạy lòng thòng , nguyên cả nhà đều ám khói. Thích nhất là họ hãy còn xài cái máy cát sét bằng băng, mà băng nhão nữa. Lâu quá mới thấy lại cái cát sét tự nhiên thấy gần gũi gì đâu.

IMG_6872.jpg




5) Chicha được ủ lên men từ những cái lu này đây.

IMG_6845.jpg






6)Ở đây cũng giống Việt nam, cứ trưa trưa chiều chiều là rủ nhau ra làm vài cốc chicha (hoặc bia). Đàn bà con gái cũng vậy, uống một hồi xỉn, đi lưng tưng, lảo đảo về cũng vui lắm…

IMG_6851.jpg




7) Bà già bán chicha

IMG_6822.jpg
 
Lá coca huyền bí

“Muốn tham quan các điểm du lịch nổi tiếng hãy đến Cuzco, hồ Titicaca, nhưng muốn tìm hiểu thực tế về cuộc sống, con người Peru thì Juliaca là điểm em cần”, chị Dao- một trong vài người Việt ở Peru, đã “dụ” tôi lên nơi chị ở bằng cách đấy.




Bài học đầu tiên…

Juliaca (một tỉnh miền núi phía Nam của Peru) là thành phố nghèo, nhỏ ở độ cao 4000 m so với mực nước biển. Nhưng cái nhìn đầu tiên khi bước xuống phố ở Nam Mỹ xa xôi là "Sao giống Việt Nam thế?". Tại Juliaca này, lúc nào cũng có xe xích lô, mà lại nhiều vô kể. Chỉ cần 70 xu (khoảng bốn ngàn đồng Việt Nam) là có thể chạy bất kì đâu trong thành phố.



3331616919_b5c503f1ac_o.jpg


Xích lô ở Peru



Chị Dao dẫn tôi đến thăm nhà gia đình chồng người Peru: “ Ông anh chồng của chị sắp đám cưới. Ổng gần 50 tuổi, có đến mấy đứa con rồi”. Tôi ngạc nhiên: “Cưới vợ mới à?”, chị lắc đầu: “ Không, cưới vợ của ổng đấy chứ”. Thì ra, ở Peru, yêu nhau là cứ về sống chung, sinh con đẻ cái. Đến khi nào thật sự hiểu nhau, có tài sản chung đủ nhiều mới làm đám cưới. Vì thế, những cặp có với nhau mấy mặt con đám cười là bình thường. Đám cưới của các cặp trẻ, chưa có con mới là hiếm.



Sau màn chào hỏi, giới thiệu với gia đình, để tỏ sự thân mật, tôi mỉm cười, khen với cô em chồng của chị Dao (người Peru): “ Tu má ma es mui bồ ní tà ( mẹ của em đẹp quá!)”, Cô em chồng nghe xong, tự nhiên sững người ra, mặt đỏ chin. Chết, trước khi đi, tôi học tủ câu này rồi mà, không thể nào sai được. Cũng may, chị Dao nghe được liền giải thích: “tiếng Tây ban nha cũng như tiếng Việt, chỉ cần lên xuống giọng sai, là ý nghĩa đã khác rồi. Nếu em nói “ma má” thì đó có nghĩa là mẹ, nhưng em nói “ma má” thì nó lại có nghĩa là…vú”. Hèn chi…



3331617189_399f5959a8_o.jpg


Đám cưới ở Peru. Không bỏ phong bì như ở VIệt Nam, ở Peru, mọi người lấy tiền mừng đám cưới dán khắp người cô dâu, chú rể. (Hình của chị Dao)



Lá coca huyền bí

Trên chuyến xe bus từ Juliaca đi Puno, trước khi khởi hành, ông tài xế lôi từ trong túi vài lá coca rồi bỏ vào miệng nhai. Thấy ông lim dim mắt lại, nhai từ từ, thỉnh thoảng lại gục gặt đầu như đang trầm tư suy nghĩ một chuyện gì đấy. Một lát sau, ông mở bừng mắt, miệng mỉm cười. Chị Dao, một người Việt sống ở Peru đã hơn 10 năm, đố tôi: “ Cậu đóan xem ông tài xế làm gì vậy ?”. Vụ này thì sách có nói nhai lá coca là một tập tục lâu đời của người Peru. Trong lá coca có chất cocain, sẽ làm con người tỉnh táo, sảng khoái hơn. Chị nghe thế cười xoà: “Đó chỉ là lí do phụ. Lí do quan trọng nhất là người Peru trước mỗi chuyến đi nhai lá coca để dự đoán về chuyến đi sắp đến của mình. Chính vị của lá coca sẽ nói lên điềm lành hay điềm gở. Nếu có vị đắng, chát khác hẳn ngày thường thì chuyến đi sắp đến phải thật cẩn thận vì có thể sẽ gặp chuyện chẳng lành."



Ở Peru gần hai tháng , đi khá nhiều nơi , tôi nhận ra lá coca giữ vai trò cực kì quan trọng trong đời sống người dân Peru, đặc biệt là các tỉnh miền núi. Ở Peru, lá coca được bán công khai, nhan nhản tại các chợ, rẻ như bèo, chỉ với 1 sol (khoảng 6 ngàn đồng Việt Nam) là có thể mua được một vốc thật to lá coca. Oviedo, nhà nghiên cứu người Tây Ban Nha đến Peru năm 1535,từng viết : “Họ luôn mang theo bên mình lá coca, thứ giúp họ không kiệt sức qua 2 ngày không ăn uống chỉ với việc nhai lá coca”.



3331615883_83588d8bab_o.jpg


Lá coca (nguyên liệu làm ra cocain) bán đại trà ở chợ. Khoảng 5000 đồng Việt Nam có thể mua được một vốc lớn.



Sự kì diệu này tôi cũng được thấy qua chuyến đi bộ dọc đường mòn Inca vưà qua, trong khi khách du lịch phải mang theo nước, viên sinh tố, và những thức ăn có năng lượng cao để leo núi thì những người thồ hàng chỉ mang theo lá coca bên mình vậy mà họ vác những bao đồ vài chục kí chạy như bay…(Theo nghiên cứu của bảo tàng thực vật đại học Havard thì lá coca chứa một lượng protein rất cao và nhiều vitamin: A, B1, B2, B6…)



Không những thế, người Peru còn dùng lá coca để cúng, chữa bệnh. Tôi đến Peru may mắn có tham dự được lể hội "trả nợ Đất mẹ" (Pachamama) vào tháng 8 hằng năm của họ. Để cầu xin may mắn, hạnh phúc, người Peru lại cầm 4 chiếc lá coca ứng với mỗi điều khấn, sau đó đặt vào hộp carton. Sau đó, hộp này sẽ được mang lên ngọn núi cao trong vùng và đốt. Họ tin rằng, nếu tất cả cháy bung lên nghĩa là đất mẹ chấp nhận điều ước của mình. Ngược lại, nếu hộp carton không cháy hết, có nghĩa ước mơ đó đã bị đất mẹ khước từ.





3332451606_c0fabcbfb7_o.jpg


Dùng lá coca để cúng trả nợ đất Mẹ (hình chụp lại, tại nhà một người bạn ở Peru)



Ngoài ra, người Peru còn có lễ cắt tóc máu. Trẻ em 1 tuổi mới bắt đầu làm lễ cắt tóc. Sau 12h đêm, người ta cho trẻ ngồi lên cái bàn, đặt nhiều lá coca xung quanh. Người được chọn người đỡ đầu (phải là người khá giả) sẽ là người cắt tóc đầu tiên cho đưá trẻ sẽ cầm nhiều lá coca lành lặn bỏ vào cốc rượu. Sau đó, mỗi người đến cắt vài sợi tóc thì lại kẹp tiền mừng vào. Số tiền này cũng giống như số tiền giúp gia đình đưá trẻ có một số vốn ban đầu để lo cho nó ăn học.







Box:

Lá coca được sử dụng làm thuốc và dùng cho các nghi lễ tâm linh từ cách đây hơn 4000 năm. Thời Inca, lá coca còn được xem như là “tiền” để trao đổi, buôn bán, đóng thuế… Ngoài ra, lá coca còn dùng như thuốc giảm đau cho các bệnh nhân, chữa đau răng, nhức đầu, côn trùng chích… (Theo: Coca- chiếc lá diệu kì của người Inca)



3397439924_23f99d448d.jpg




3397441986_a8b5e69dcc.jpg


Lễ cắt tóc máu (hình của chị Dao)
 
Coi bói ở Puno Người đàn ông cầm nắm lá coca niệm chú rồi đưa nắm lá sát miệng cái đầu lâu đặt ngay trên bàn: “Xin bà nói giùm con biết…” Căn phòng tối lờ mờ chìm hẳn trong đám khói từ bột trầm và cỏ thơm, ánh sáng vàng vọt từ bóng đèn điện tù mù trên trần hắt xuống cái đầu lâu trắng hếu làm không khí trở nên ma quái, mọi người bất giác rùng mình. Đây không phải là một cảnh trong phim, mà là hình ảnh thực tế của một buổi coi bói bằng lá coca ở tỉnh Puno- Peru.





Niềm tin tâm linh

Coi bói cũng là một phần không thể thiếu của người Peru. Từ chuyện tranh cử tổng thống cho đến những chuyện cỏn con như mất con gà, con vịt cũng xem bói. Mỗi lần đấu vòng loại vùng Nam Mỹ để tranh vé dự Mundial thì trước mỗi trận đấu ở sân nhà, tivi lại tường thuật trực tiếp người Peru mời hẳn ông thầy cúng về làm lễ rưả sân, đốt trầm hương, cỏ thơm, phun bia rượu phì phì ngay tại sân vận động, rồi phù phép cho các cầu thủ bóng đá. (nhưng có lẽ thầy chưa linh nên bóng đá Peru vẫn bê bết, thua liên tục!?) Thậm chí, trước kì tranh cử tổng thống, phóng viên, nhà đài cũng ra sức săn lùng những người xem bói giỏi, để đoán xem ông nào sẽ trúng cử tổng thống, rồi đăng báo, lên tivi nhặng xị…



Ở các tỉnh miền núi, niềm tin vào tâm linh còn cao hơn nhiều lần. Vì thế, chợ nào cũng có hẳn một khu bói toán. Tò mò, tôi cũng đi xem bói thử. Juliaca là một thành phố nghèo miền núi do chẳng có điểm du lịch nào nổi tiếng. Chợ trung tâm nằm sát đường ray xe lưả cũng nghèo. Khu bói toán là một dãy lều bạt nhỏ, phía sau chợ. Ở đây có thể xem bói đủ loại từ bài tây, chỉ tay, bói chì (chì được đun nóng chảy, ai muốn xem bói thì múc một thià chì nóng chảy đổ vào nước lạnh. Dựa vào những hình dạng mà chì đông lại, thầy bói sẽ nói được tương lai của mình)… nhưng đặc biệt là xem bói từ lá coca.



3331630623_ae3eedea81.jpg


Dựa vào hình dạng của chì đã nấu chảy, thầy bói sẽ đoán hậu vận



3332465764_b00a9d3c73.jpg


Bà này bói bằng con cú (Cũng may, trong phượt này gõ được dấu, chứ tui chú thích ảnh ở trong flickr không có dấu).



Đi tìm thủ phạm...

Trước khi xem bói, bà thầy bói kêu cầm một vốc lá coca vừa mua lên và thổi vào đấy. (như là đã thổi “hồn” mình vào). Sau đó, ứng với mỗi điều cần hỏi lại đặt tiền trên mỗi lá coca, tiền tuỳ hỉ. Bà cầm vốc lá coca tung lên, rồi săm soi từng chiếc lá rơi trên bàn. Chỉ vào những mảnh lá coca vụn bà phán: “ Công việc trong tương lai của cậu sẽ thuận lợi nhưng …” bà thấy bói chợt khựng lại, chỉ vào cái lá bị rách mất một bên: “ Đang có người nói xấu cậu, hãy cẩn thận”… Thì ra, mỗi hình dáng, mặt sấp ngưả của lá coca đều mang ý nghĩa riêng …



3332465148_8dca403b4e_o.jpg


Bà thầy bói đang "phán"



Vưà đi xem bói về thì bà hàng xóm của chị Dao cũng vưà bị mất trộm, và bà quyết định đi xem bói để tìm ra thủ phạm . Tò mò , tôi xin đi theo . Bà thì thào: “ông này xem bói rất giỏi, nhà ai bị mất trộm đến nhờ là ông ta có thể chỉ tận mặt thằng ăn trộm. Có thằng trộm ở rất xa, phải thuê xe ôtô đưa ông ấy đi, ông ấy cũng chỉ ra tận nơi”. Nhà ông thầy bói khá xa, đến nơi đã thấy xe hơi, xích lô đậu kín mít, từ ông áo veston lịch lãm đến bà già Quechua truyền thống đều nhẫn nại chờ đến phiên chưa kể có mấy phóng viên ngồi chầu rià để săn tin vỉa hè. Cô vợ trẻ, phốp pháp của ông thầy bói đang chăm lũ con 5,6 đứa chạy lăng quăng trước sân… Đến phiên, chúng tôi vào căn phòng riêng sực mùi trầm, và cỏ thơm của ông, trên bàn có cái đầu lâu trắng hếu. Ông thầy bói tuổi trạc 50, miệng nhai lá coca liên tục, nói rặt tiếng Quechua (ngôn ngữ của người Inca cổ). Ông hỏi bà hàng xóm tên những người tình nghi và viết tên từng người lên mỗi chiếc lá. Rồi ông cầm nắm lá coca khác khấn vái, niệm chú hôì lâu và đưa nắm lá vào sát miệng cái đầu lâu: “ Xin bà cho biết kẻ trộm là ai?” Rồi ông lim dim như đang nghe “bà đầu lâu” nói. Sau đó, ông tung nắm lá coca lên trời. Nếu phần lớn mặt trong chiếc lá ( mặt màu xanh đậm) cùng ngữa lên, và cùng chĩa vào chiếc lá nào có ghi tên thì người đó chính là thủ phạm. Ông làm đi, làm lại 3 lần để kiểm tra tính chính xác…



Về lại Cusco, tình cờ đọc quyển sách về lá coca, lại đi bảo tàng Inca chợt thấy tức cười vì những gì thầy bói “phán” dựa theo lá coca đều có trong này. Nếu để râu và biết thêm tiếng Quechua nữa là tôi có thể làm thầy bói ở Peru rồi…





3332464598_3413f23013.jpg




Biểu tượng về lá coca của người Inca cổ:

Chiếc lá có hai mặt. Mặt trong (màu xanh đậm) là điềm tốt, mặt kia là điềm xấu.

Lá tròn tượng trưng cho đàn bà. Lá dài, dẹt tượng trưng cho dàn ông

Lá bị rách một bên: có người nói xấu.

Lá bị rách mất một góc trên: sẽ gặp gỡ người không quen biết

Lá bị thủng ở giữa: bệnh tật, đớn đau…

Lá gập lại 2 bên (như 2 tay xếp lại, nằm trong quan tài): cái chết, điềm xui xẻo.

Lá coca vụn: tượng trưng cho sự phát triển tài lộc đối vơí mua bán, thăng tiến đối với công việc
. (Bảo tàng Inca- thành phố Cusco)



3331628079_82fef885e0_o.jpg


Thầy bói đang "thuyết pháp" giữa chợ



3332467352_958df8a27c_o.jpg


Khu lều bói toán ở chợ Juliaca
 
Những hòn cuội tiền... Đó là ngày lễ kì lạ với “những hòn cuội tiền” được đánh đổi bằng hàng tiếng đồng hồ ngâm mình trong dòng nước sông lạnh như đông đá…





Từ chặp tối ngày 31/7, khắp các đường phố, chợ đều bày bán các loại củi trầm và bột thơm. Ai cũng đều nô nức đi mua, vẻ mặt hớn hở lạ thường. “Sắp lễ gì thế?”, tôi hỏi. Chị Dao nháy mắt cười cười: “mai sẽ biết…”

Ngày mai của chị Dao bắt đầu từ bốn giờ sáng. Mới nằm lơ mơ ngủ, vợ chồng chị Dao đã lay dậy: “ Ra sông mau lên”. Juliaca vào mùa đông lạnh kinh hồn. Trời tối mịt, rét run thế này ra sông làm gì trời? Nói thế, tôi cũng mắt nhắm mắt mở đi theo.



Vừa ra đường, tôi tỉnh ngủ hẳn. Không hẳn bởi cái lạnh kinh hồn vào mùa đông của Peru (Peru nằm ở Nam bán cầu nên mùa đông từ tháng 6-8), mà bởi thấy lạ quá. Khắp các ngã đường, người đông nghịt, ùn ùn kéo nhau đi. Từ con nít đến bà già, từ thanh niên đến phụ nữ, ai nấy đều hăm hở chạy ra bờ sông (cách thị trấn cũng gần 5 cây số). Con sông mùa này nước chỉ xâm xấp đến ngực nhưng lạnh cắt da cắt thịt. Ai có đuốc xài đuốc, ai có đèn (pin) xài đèn, già trẻ lớn bé đều ào xuống song mò tìm cho được những hòn đá tròn, nhẵn như đồng tiền. Chốc chốc lại có người tay cầm hòn cuội hồ hởi la lên với vẻ mặt sung sướng tột độ. Ngay trên bờ sông, mấy ông thầy phù thủy đã đứng chờ sẵn. Họ đốt củi trầm, bột cỏ thơm, hơ những hòn cuội vừa nhặt dưới sông lên trên đám khói đấy, rồi đổ bia xung quanh và khấn cho những hòn cuội này sẽ biến thành tiền thật. Roberto giải thích: “ Vào ngày mùng một tháng tám hàng năm (ngày mà người Peru tin rằng đó là ngày âm dương giao hội, con người được gần gũi với đất Mẹ nhất) mọi người thường kéo nhau ra song lặn tìm những “hòn cuội tiền”. Họ tin rằng những hòn cuội đó chính là số tiền trong năm sau họ sẽ có”. Vì thế, ai cũng ra sức nhặt càng nhiều càng tốt.



Và cũng vi niềm thâm tín cao độ như thế nên cũng có một cái chợ nhỏ của những người nghèo. Đó là những em bé, những bà già thức dậy từ khuya, bất chấp nước sông lạnh như muốn đông đá, họ lặn xuống ráng tìm những hòn cuội tiền để bán lại cho những người dậy muộn. Lấy tiền thật để mua sỏi. Ấy vậy mà có lúc không đủ sỏi để bán đâu nhé. Một vốc những hòn cuội tiền đó có khi phải mò cả tiếng đồng hồ, được bán chỉ với giá 1 sol (khoảng 5 ngàn đồng Việt Nam). Điều đó có nghĩa là họ phải mò ba tiếng mới đủ tiền cho một bữa cơm…



3332555042_d2464596a4.jpg


Một đống "hòn cuội tiền" này chỉ được bán với giá 1 sol.
 
Top